Niệm Phật

Tu Pháp Môn Niệm Phật

  1. Đạo hữu nghe được nhiều bài giảng Phật Pháp của Thầy thì rất tốt, nhưng bên cạnh đó mình nên chọn cho mình 1 pháp môn Tu để sau này mình được nhiều lợi ích hơn. Đồng ý là nghe nhiều thì có trí huệ và Công Đức. Bên cạnh đó nếu mà chỉ nghe mà không chọn pháp môn tu thì khó có thể giải thoát khỏi sanh tử. Giống như 1 miếng bánh rất thơm ngon nếu chỉ ngửi mùi thôi thì mình không biết vị ngon ngọt thế nào, đến khi mình ngửi và ăn thì mới biết bánh đó thật sự ngon như thế nào.Cũng vậy, nếu mình chỉ nghe Phật Pháp mà không chọn pháp môn Tu thì cũng giống như ngửi bánh ngon mà không được ăn vậy. Mình nên có Văn, Tu và Chứng. Nếu chỉ có Văn (tức là nghe Pháp) mà không tu làm sao Chứng biết được vị của Giải Thoát. Hồi đức Phật còn tại thế, có 1 vị đệ tử là Ngài A Nan, Ngài nghe Phật nói Pháp tới đâu là Ngài nhớ tới đó. Ngài là thị giả của đức Phật bởi thế nghe rất nhiều về Phật Pháp. Nhưng khi Phật còn ở trần thế, Ngài vẫn chưa tu giải thoát cho chính mình, vì Ngài A Nan nghe nhiều mà không lo tu. Đến khi Đức Phật qua đời, thì Ngài A Nan tinh tấn tu hành sau này mới chứng quả Thánh thoát khỏi sanh tử luân hồi. Có đệ tử Phật lúc Phật còn tại thế, Ngài nghe Phật giảng 1 bài Pháp, sau đó tu liền thời gian sau liền chứng quả vị Thánh trong hiện đời. Bởi vây đạo Phật không chủ trương nghe Pháp để giải trí hay nghe chơi cho vui hay nghe để lấp khoảng thời gian trống. Đạo Phật chủ trương nghe Pháp để có trí huệ và nương theo pháp môn Tu để tu thoát khỏi sanh tử. Nếu mà chỉ nghe Pháp không mà không chọn cho mình pháp môn Tu hành thì khó có thể thoát khỏi luân hồi đau khổ.

    Theo đạo Phật, được thân người là rất khó, gặp được Chánh Pháp lại còn khó hơn, gặp Chánh Pháp mà tu theo được Chánh Pháp lại còn rất khó. Đạo hữu đã được nghe Thầy giảng thì đạo hữu cũng đã có nhiều duyên lành với Phật Pháp từ nhiều kiếp trước. Nếu mình có duyên lành thì mình nên bắt lấy cơ hội quý báo này để chọn cho mình pháp môn Tu để giải thoát sanh tử luân hồi. Sanh tử là khổ, chỉ 1 đời này mình gặp nhiều điều khổ, huống chi nhiều đời nhiều kiếp sanh đi tử lại thì cái khổ phải nói là rất khổ và rất nhiều. Nếu biết cõi đời này là Khổ (1), sao mình không tu chẳng lẽ mình thấy Khổ mà vẫn chui đầu vào, như thấy tối mà đi vào tối. Không phải đạo Phật nói Khổ để bi quan mà nói Khổ để cho mình thức tỉnh tìm cách giải thoát. Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết tới hay Vô Thường tới (không thường còn mà hay thay đổi), lúc đó đã quá muộn rồi. Cõi này Vô Thường: thân vô thường (sanh, lão, bệnh, tử), tâm vô thường (buồn, giận, thương, ghét…) và hoàn cảnh vô thường (thành, trụ, hoại, không). Thân này rất mỏng manh, nó ví như là bọt biển có thể vỡ bất cứ lúc nào. Người có trí huệ nên dùng thân giả tạm này như chiếc bè để tu hành qua đến bờ Giải Thoát. Đừng để cuộc đời mình trôi đi qua theo năm tháng già bệnh chết một cách uổng phí. Như có Thầy nói, người sống trăm tuổi không biết tu thì không bằng người sống 1 ngày mà biết tu. Đúng như vậy, sống trăm tuổi mà chỉ biết ham mê ngũ dục, ăn ngủ và dục lạc… Đến khi chết không biết đi về đâu hoang mang sợ hãi và khi chết rồi đi tái sanh lại còn khổ hơn. Sống như thế hiện tại không được an lạc mà tương lai mờ mịt, sống như thế không có ý nghĩa và lợi ích cho mình. Hiểu cuộc đời này là vô thường, thân này là giả tạm, luân hồi là đau khổ, cõi này là cõi khổ thì mình chọn cho mình 1 pháp môn tu liền ngay lập tức đừng để cái Chết hay Vô Thường đến trước khi mình bắt đầu tu? Vậy Tu như thế nào và tu theo pháp môn gì?

    Đạo Phật rất hay, hay ở chổ là nói Pháp cho mình có trí huệ và có duyên lành rồi sau đó mình tỉnh thức và nương theo pháp môn để tu. Pháp môn tu thì có rất nhiều gồm 84000 pháp môn. Tùy theo căn cơ và hoàn cảnh của chúng sanh mà chọn pháp môn tu cho phù hợp mỗi cá nhân. Tu đây không có nghĩa là bắt buộc phải Tụng Kinh, vào chùa cạo đầu. Mình tu tại gia thì mình tu theo khả năng và hoàn cảnh của mình. Có nhiều pháp môn tu trong đạo Phật. Tùy theo căn cơ, trình độ, điều kiện và hoàn cảnh của mỗi người mà chọn pháp môn tu cho phù hợp. Pháp môn mà nhiều người tu (kể cả tại gia và xuất gia) là pháp môn Tịnh Độ (pháp môn niệm Phật). Sở dĩ pháp môn niệm Phật phổ biến và nhiều người tu vì nó không giới hạn mình trong 1 khuôn khổ nhất định nào và dễ tu đạt nhiều lợi ích. Như tu theo Thiền, mình nên có thời gian và môi trường yên tĩnh. Như pháp môn niệm Phật, đi, đứng, nằm, ngồi hay làm chuyện gì mình cũng có thể niệm Phật được. Mục đích và hướng đến của người tu Tịnh Độ là Vãng Sanh Cực Lạc. Muốn vãng sanh Cực Lạc gồm có 3 điều kiện: Tín, Nguyện và Hạnh. Như trong Kinh Phật A Di Đà, Phật Thích Ca nói cách đây mười vạn ức cõi Phật hướng về Phương Tây có 1 thế giới tên gọi là Cực Lạc, vị giáo chủ cõi Cực Lạc là Phật A Di Đà hiện đang thuyết pháp tại đó. Mình nên tin Phật Thích Ca nói vì Ngài không bao giờ nói dối và Ngài ra giới luật không nói dối cho đệ tử Ngài cũng như hàng xuất gia và tại gia. Mình chưa có khả năng thấy biết được Thê Giới Cực Lạc và Phật A Di Đà là giáo chủ cõi Cực Lạc, nhưng qua khả năng thấy biết của Thích Ca Mâu Ni Phật và Ngài nói lại mình nên tin như thế. Như trước đây khi không có kính thiên văn, người ta nghĩ chỉ có 1 trái đất này tồn tại, nhưng sau thời gian nhà khoa học khám phá ra được ngoài trái đất này (hay là cõi này) có rất nhiều hành tinh khác nhau. Cách đây hơn 2500 năm, đức Phật đã nói có nhiều cõi nước khác nhau trong vũ trụ này bởi vậy Phật đã nói đúng với khoa học.

    Thứ nhất tu theo pháp môn Tịnh Độ phải có Tín. Bất cứ tu theo pháp môn nào cũng đòi hỏi Tín nếu không tin làm sao tu theo được. Tin vẫn là căn bản thiết yếu trong hết thay mọi pháp môn tu. Tin là mẹ đẻ ra tất cả những Công đức. Vậy người tu Tịnh Độ nên tin những gì: Tin có Phật A Di Đà, tin có cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà, tin Nhân Quả, Tin rằng kiếp sống này ngắn ngủi mạng người như hơi thở ra vào, tin 48 (2) lời nguyện của Phật A Di Đà là hoàn toàn chân thật

    Thứ 2 là phải nên có Nguyện, nếu không có Nguyện làm sao Vãng Sanh Cực Lạc được. Giống như người đi từ điểm A tới điểm B, nếu người đó nói Tôi muốn đi tới điểm B mà tâm ý không muốn đi tới điểm B thì không bao giờ tới được. Khi mình có Nguyện thì Phật A Di Đà có tha tâm thông (3) mới biết mình muốn Vãng Sanh Cực Lạc thì Ngài mới giúp mình Vãng Sanh được. Mình vẫn còn là phàm phu không có khả năng vãng sanh được nhưng nhờ có Phật Lực giúp cho mình Vãng Sanh. Đạo hữu nên Nguyện như thế này: Nam Mô A Di Đà Phật, con tên gì…sanh năm mấy…bao nhiêu tuổi…con nguyện vãng sanh Cực Lạc sau khi con bỏ thân mạng này. Nguyện nhiều hay ít hoặc nguyện 1 hay 2 lần cũng được tùy theo mỗi người và Đạo hữu nguyện trong tâm hay nguyện ra tiếng hay đứng trước hình Phật hay không đứng trước cũng được. Tại sao mình phải nguyện về Cực Lạc, Cực Lạc là gì? Cực nghĩa là rất, Lạc là vui. Cực Lạc là rất vui. Trong Kinh Phật A Di Đà có nói đến đoạn “Tại sao gọi là Cực Lạc? Vì cõi đó không có những sự đau Khổ chỉ hưởng thụ những sự vui sướng mà thôi”. Vui sướng đây không có nghĩa là Vui sướng với dục lạc, ngũ dục hay vui tạm bợ của thế gian…Vui sướng đây là vui được thường nghe Phật Pháp, vui không phiền não, vui không già, bệnh, chết, vui không đau khổ, vui được bực Thượng Thiện Nhân (Bồ Tát) được ngồi chung nghe Pháp, vui với Công Đức Trang Nghiêm của Cực Lạc và không có những điều Khổ và không có những tiếng Khổ và không có những điều ác và những điều vui khác…Bởi thế nên Nguyện Vãng Sanh Cực Lạc để được nhiều lợi ích cho chính mình.

    Thứ 3 là nên có Hạnh tức là trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Trì đây có nghĩa là mình nên niệm Nam Mô A Di Đà Phật nhiều mỗi ngày tùy theo khả năng và hoàn cảnh của mình. Trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật có nhiều cách: hoặc là trì Nam Mô A Di Đà Phật ra tiếng, hoặc trì thầm, hoặc lần xâu chuổi hoặc trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật trong tâm… Cách nào cũng được miễn sao phù hợp với khả năng và hoàn cảnh mỗi người. Đi, đứng, nằm, ngồi hay làm chuyện gì cũng trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật cũng được. Như trong Kinh A Di Đà có nói “Nếu có chúng sanh nào nghe nói về Đức Phật A Di Đà, cố gắng chuyên trì danh hiệu Ngài: hoặc 1 ngày, hoặc 2 ngày, hoặc 3 ngày, hoặc 4 ngày, hoặc 5 ngày, hoặc 6 ngày, hoặc 7 ngày, nhất tâm chẳng loạn, thì người ấy khi lâm chung sẽ được sinh sang cõi nước Cực Lạc của Phật A Di Đà”. Nếu muốn niệm Phật được sớm Nhất Tâm Chẳng Loạn thì nên trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật không xen tạp nghĩa là sao? Nghĩa là niệm Phật không nên để vọng tưởng xen vào, niệm Phật với tâm thanh tịnh thì được phẩm vị Vãng sanh cao (4). Trong Kinh Niệm Phật Ba La Mật còn nói “Muốn vãng sanh Cực Lạc chỉ cần trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật là đủ”. Bởi thế mình tu theo pháp môn Tịnh Độ chỉ cần có Tín, Nguyện và trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật là đủ.

    Theo như Kinh Niệm Phật Ba La Mật có nói “Vãng Sanh Cực Lạc thì không còn ở địa vị phàm phu thân xác ngũ uẩn nữa” (tức là thoát khỏi sanh tử luân hồi). Vãng Sanh Cực Lạc mình được rất nhiều lợi ích là chứng được quả vị Bất Thối Chuyển (không còn thối chuyển ở quả Vị Phật), thọ mạng lâu dài sống rất lâu (trích trong Kinh A Di Đà), không phiền não, bệnh, già, chẳng những thế mà không khổ còn hưởng những điều vui, và còn có điều kiện tốt, môi trường và hoàn cảnh tốt, bạn tốt để tu hành tiến tu lên tới quả vị Thánh. Khi mình tu hành lên tới quả vị Bồ Tát, nếu mình tu tiếp lên tới quả vị Phật, mình phải trở lại những Cõi, độ giúp những chúng sanh khác giải thoát. Bồ Tát lấy lợi ích cho chúng sanh làm sự nghiệp của mình. Bởi thế Bồ Tát muốn thành Phật thì phải độ giúp rất nhiều chúng sanh thoát khỏi sanh tử luân hồi.

    Đới nghiệp vãng sanh là vãng sanh mang theo nghiệp nghĩa là mặc dù mình có Nghiệp (Nghiệp Thiện hay Ác) nhưng mình vẫn được vãng sanh. Không có nghĩa là mình tạo tội hay điều ác mà mình tránh được Quả Báo. Nhân Quả thì đúng ba đời Quá Khứ Hiện Tại Và Vị Lai không sai. Mình vãng sanh cõi Cực Lạc thì không lãnh Quả báo nhưng khi mình ở quả vị Bồ Tát trở lại độ giúp chúng sanh thoát khổ, lúc đó Quả Báo từ nhiều kiếp trước của mình đến với mình. Lúc đó mình có năng lực lãnh Quả báo 1 cách an nhiên, chứ mình không đau khổ lãnh Quả báo như còn phàm phu. Còn những tập khí: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến…Những tánh xấu đó khi mình Vãng Sanh Cực Lạc mình sẽ tiêu trừ nó lần lần đến diệt đi. Mình Vãng Sanh Cực Lạc thì mình có nhiều cơ hội điều kiện tốt để diệt trừ đi những tâm xấu của mình. Nếu nói như thế thì những người ác nếu Vãng Sanh Cực Lạc thì cõi đó sẽ trở nên phức tạp sao? Không. Người ác nếu mà hồi đầu mà tu theo pháp môn Tịnh Độ, nếu có Tín Nguyện Hạnh, hoặc trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật trước khi lâm chung đủ 10 niệm. Thì người đó vẫn được vãng sanh nhưng mà ở phẩm vị thấp. Nếu ở phẩm vị vãng sanh thấp thì hoa sen rất lâu nở và lâu thấy cõi Cực Lạc. Khi hoa sen nở sẽ thấy được Quán Thế Âm Bồ Tát hay Đại Thế Chí Bồ Tát thuyết pháp cho chúng sanh đó nghe. Còn những chúng sanh nào mà tội ít, làm lành nhiều, niệm Phật nhiều thì hoa sen của người đó mau nở và mau thấy được cõi Cực Lạc.

    Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ có nói “mỗi câu niệm Phật trừ được 80 ức kiếp (1 ức bằng 1 vạn) tội sanh tử?” Nam Mô A Di Đà Phật là gì? Nam Mô (nghĩa là Quy Y) A Di Đà (Vô Lượng Thọ hoặc Vô Lượng Công Đức) Phật (Giác Ngộ). Trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật được rất nhiều Công Đức. Trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật trừ đi được nhiều vọng tưởng. Trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật làm thân, khẩu và ý của mình từ từ trở nên thanh tịnh, như thế mình hạn chế hoặc không tạo ra Tội và Nghiệp xấu. Và niệm Phật được nhiều lợi ích khác (muốn biết thêm xin đọc cuốn Kinh Niệm Phật Ba La Mật có nói nhiều về lợi ích của trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật)

    Đặc điểm của Pháp môn niệm Phật là: tự tha và lợi tha. Tự tha là tự nỗ lực chính mình tu hành trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Còn lợi tha nghĩa là nhờ Phật Lực giúp mình được Vãng Sanh Cực Lạc. Không như pháp môn Thiền, chỉ có tự tha mà không có lợi tha nghĩa là tự khả năng mình tu hành mà không có lợi tha.
    Còn việc Vãng Sanh Cực Lạc thì có người đã Vãng Sanh hay chưa? Đã có rất nhiều người đã vãng sanh Cực Lạc, những người tại gia và xuất gia đã vãng sanh rất nhiều, có những video, tài liệu sách vở, hình ảnh lưu xá lợi, và những vị Thầy kể lại. Những điều này mình nên tin vì những bằng chứng ghi lại hay kể lại này đều là Phật tử tại gia hay xuất gia. Phật tử thì không được nói dối cho dù tại gia hay xuất gia. Có nói có, không nói không, không có thì không nói. Nếu phạm tội nói dối là phạm vào giới luật của đạo Phật. Một trong những giới luật căn bản của người Phật tử tại gia hay xuất gia là không được nói dối. Nếu người này phá giới nói dối, tội người này nặng hơn người không giữ giới. Tức là tội nói dối cộng thêm với tôi phá giới.

    Khi mình tu theo pháp môn niệm Phật, khi cái chết đến với mình mình không hoang mang, lo sợ hay đau khổ vì mình biết hướng đi của mình, mình biết sẽ về đâu vì có sự giúp đỡ và sự tiếp dẫn của Phật A Di Đà để giúp mình Vãng sanh Cực Lạc thì mình không còn gì phải lo sợ. Còn nếu mình không biết tu, khi cái chết đến mình rất hoang mang, đau khổ, hoặc mình thấy những oan hồn oan gia trái chủ đến đòi nợ, và mình thấy những tội ác mình làm trước và thấy những cảnh ghê sợ hiện đến và sự đau đớn của thể xác sắp tan ra trong nội tạng. Sau khi chết mình bị Nghiệp (5) (là hành động tạo tác của thân, khẩu và ý) dẫn đi luân hồi sanh tử, và thần thức (hay linh hồn) không biết sẽ tái sanh đi đâu và không biết có vào tam ác đạo (địa ngục, ngạ Quỷ và súc sinh) hay không. Mình không định hướng cho mình đi tái sanh, chỉ có Nghiệp Thiện và Nghiệp Ác của mình quyết định hướng tái sanh cho mình. Có 4 Nghiệp sẽ tác động đến khi luân hồi là: Cận Tử Nghiệp (Nghiệp trước giờ lâm chung, nghiệp xấu như giận dữ …), Cực Trọng Nghiệp (Nghiệp rất nặng: như giết cha mẹ…), Thường Nghiệp (nghiệp tốt hay xấu mình làm thường trong khi còn sống), và Tích Lũy Nghiệp (Nghiệp nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ). Thầy có nói là mình là chủ nhân của Nghiệp và mình cũng chính là thừa tự của Nghiệp. Mình tạo Nhân gì thì mình gặt Quả đó không trốn chạy đi được. Mình tạo Nhân tốt, được Quả tốt, mình tạo Nhân xấu, được Quả xấu. Như Phật nói khi Quả đến cho dù mình có chui vào hang, trốn trong lòng đất cũng không thoát khỏi cái Quả. Nhân Quả là đúng ba đời (Quá Khứ, Hiện Tại và Vị Lai). Bởi thế khi sắp lâm chung Nghiệp sẽ quyết định ta luân hồi vào cõi tốt hay xấu. Bởi thế sanh tử luân hôi là rất nguy hiểm và đau khổ. Bởi thế lúc còn sống mình nên tạo Thường Nghiệp tốt như trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật là một ví dụ để trước khi chết mình có Cận Tử Nghiệp là vẫn niệm Nam Mô A Di Đà Phật thì khi lâm chung mình chắc chắn vãng sanh Cực Lạc. Khi còn sống nếu không tạo Thường Nghiệp tốt tức là không trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, trước khi lâm chung rất khó khăn trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Mặc dù biết rằng trước khi lâm chung trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật mười niệm vẫn được Vãng Sanh Cực Lạc (trích trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ), nhưng rất là khó vì có người khi lâm chung bị nhiều thứ chi phối (như thân thể đau đớn, tâm sợ hãi lo sợ, hình ảnh xấu hiện trong tâm, hoặc thấy oan gia trái chủ…) rất khó mà trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật đến mười niệm. Mình còn sống thì nên chuẩn bị Thường Nghiệp trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật cho nhiều để mình tạo thói quen và tạo cái Lực thật mạnh, để khi lâm chung thói quen niệm Phật đó sẽ giúp mình nhớ đến niệm Phật và cái Lực sẽ tác động mình trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật 1 cách dể dàng.

    Đạo hữu nên tin những gì tôi nói trên. Tôi cũng là Phật tử tại gia và tu theo pháp môn Tịnh Độ nhiều năm và tôi đã có Tín, Nguyện và trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật cũng được nhiều năm rồi. Tôi không nói dối gì cả, tôi đọc nhiều Kinh Phật, sách Phật Pháp cũng như xem nhiều tài liệu Kinh Phật về pháp môn Tịnh Độ, và qua đó nghe nhiều bài giảng của Thầy về Phật Pháp và pháp môn Tịnh Độ. Nếu đạo hữu muốn tìm hiểu thêm về pháp môn Tịnh Độ cũng như tìm hiểu thêm về Công Đức Trang Nghiêm của cõi Cực Lạc, 48 lời nguyện của Phật A Di Đà, nói Tín, Nguyện và Hạnh, hay tả về cõi Cực Lạc rất đẹp và vi diệu như thế nào thì có thể tìm đọc: Kinh Niệm Phật Ba La Mật, Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ. Đó là 4 Kinh Phật chính nói về pháp môn Tịnh Độ (hay pháp môn niệm Phật) qua đó có thể tham khảo thêm. Hoặc có thể nghe những bài giảng của Thầy về Pháp môn Tịnh Độ và xem đĩa của những người vãng sanh hoặc đọc sách của Cư Sĩ Tịnh Hải biên soạn (có nhiều hình ảnh lưu xá lợi của những người đã vãng sanh và có những câu chuyện thật của những người vãng sanh).
    Tôi viết những điều này cũng mong rằng đạo hữu tu theo pháp môn Tịnh Độ liền, đừng để những nghi ngờ, hay những chướng duyên nào đó hay bị cuộc sống mình cản ngăn. Đừng để tâm mình biện minh, tại này tại nọ hay hẹn này hẹn nọ hay lý do này lý do nọ là tôi không tu được theo pháp môn niệm Phật. Chẳng lẽ mình đi theo những nghi ngờ này nghi ngờ nọ hay lý lẽ này lý lẽ nọ hay lý do này lý do nọ mà đánh đổi cơ hội quý báo thoát khỏi sanh tử luân hồi đau khổ này sao. Như thế không đáng chút nào. Pháp môn này rất dễ tu ai ai tu cũng được. Đi, đứng, nằm, ngồi hay làm công chuyện mình vẫn có thể trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật hoặc là niệm Phật ra tiếng, hay niệm Phật thầm hay niệm Phật trong tâm cách nào cũng tốt…Đạo hữu nên bắt đầu ngay từ bây giờ, đừng đợi thời gian sau làm. Mình đâu biết cái chết có thể đến với mình 1 giờ sau hay qua ngày mai đâu…Cái chết không biết đến với mình bất cứ lúc nào, không biết sống nay chết mai, và nó không phân biệt khoẻ mạnh, ốm đau, già trẻ, lớn bé, nam hay nữ…Bởi thế, giờ còn sống ngày nào nên tu theo pháp môn Tịnh Độ: có Tín, Nguyện và Hạnh đầy đủ là chắc chắn được vãng sanh Cực Lạc. Mình đừng nên để lý lẽ lý luận làm chướng ngại cho đường tu hành của mình. Tu theo pháp môn Tịnh Độ là lợi ích cho mình và lợi ích cho nhiều chúng sanh khác hiện tại và sau này nữa. Nếu mình vãng sanh Cực Lạc sau khi bỏ thân mạng này, mình về cõi Cực Lạc tinh tấn tu hành, sau này trở thành Bồ Tát, trở lại sớm độ giúp nhiều chúng sanh thoát luân hồi. Tất cả mọi thứ điều Vô Thường, Thân Vô Thường, Tâm cũng Vô Thường, Hoàn cảnh cũng Vô Thường, vui buồn, mừng giận, thương ghét, thành bại, khổ đau, vui sướng…những điều này cũng bị luật Vô Thường chi phối những tâm trạng đó có rồi mất không thường còn với mình. Mình chết là sẽ bỏ lại tất cả những tài sản của cải vật chất, người thân, thân mạng mình và những Tâm vui buồn… Mình chỉ mang đi cái Nghiệp Thiện và Ác của mình tạo ra. Nếu mình có tạo nghiệp Thiện, nếu có sanh về cõi trời đi nữa, khi hưởng phước đã hết thì vẫn luân hồi và vẫn đau khổ trở lại. Chi bằng, nay mình biết pháp môn Tịnh Độ, nương theo Tín Nguyện Hạnh mà tu thì mình thoát khỏi sanh tử luân hồi một cách dể dàng nhờ Nguyện Lực, Tha Lực và Lòng Đại Từ Đại Bi của Phật A Di Đà tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc. Đã có nhiều người đã vãng sanh, đừng để mình là một trong những người không được vãng sanh thế thì rất tiếc. Đừng để mình tụt lại phía sau những chúng sanh khác. Đừng để mình phải tiếp tục chịu khổ trong luân hồi và trong khi đó nhiều chúng sanh đã vãng sanh thoát khỏi sanh tử luân hồi hết đau khổ. Những người có trí huệ thấy khổ người ta tìm cách thoát khổ, chứ không phải thấy khổ mà vẫn vui trong khổ, đó là si mê. Mình nên nương theo người trí huệ đừng nương theo người si mê để rồi phải chịu nhiều đau khổ từ kiếp này sang kiếp khác từ đời này sang đời khác. Mình nên tu theo pháp môn Tịnh Độ để đặt dấu chấm hết cho sự luân hồi đau khổ cho chính mình và ráng tu theo pháp môn Tịnh Độ để kiếp sống này là kiếp cuối cùng của mình trong sanh tử luân hồi. Già, trẻ, nam, nữ, khỏe mạnh, người tốt, người xấu, người bệnh, ngu si, thông minh gì…cũng tu được pháp môn niệm Phật này, chủ yếu mình có tu hay không thôi. Nếu mình có Tín Nguyện Hạnh đầy đủ thì Phật A Di Đà chắc chắn giúp mình vãng sanh Cực Lạc và Ngài không bỏ sót bất cứ chúng sanh nào cả không luận người đó ở địa vị gì, hoàn cảnh thế nào, thân thế ra sao, tốt hay xấu…miễn tu theo pháp môn niệm Phật thì Ngài sẽ giúp cho vãng sanh Cực Lạc chắc chắn là thế.

    Mình tu theo pháp môn Tịnh Độ và trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật là mình có rất nhiều thiện căn phước đức từ nhiều kiếp trước. Nhiều kiếp trước mình đã gieo duyên lành nhiều với Phật Pháp, tạo Nhân tốt nhiều và tu hành nhiều. Nên nay mình tu theo pháp môn Tịnh Độ và được trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật đây là Quả thoát khỏi sanh tử luân hồi sau khi bỏ thân mạng này là điều tất yếu. Bởi thế mình nên nắm lấy Quả tốt này đừng nên phân vân để rồi Cái Chết đến với mình và mình mất duyên thoát khỏi sanh tử luân hồi. Đừng nghĩ đợi kiếp sau mình sẽ gặp Phật Pháp rồi mình tu hành thoát khỏi sanh tử luân hồi sau. Theo đạo Phật, đây là thời Mạt Pháp, sau thời Mạt Pháp này qua rồi. Phật Pháp bị diệt phải đợi rất rất rất lâu thì Phật mới ra đời. Nếu mình đánh mất cơ hội tu theo pháp môn Tịnh Độ cuộc đời này, mình sanh tử luân hồi lại rất là đau khổ và nguy hiểm, cho dù ở cõi Người đi chăng nữa lúc đó ngoại đạo, những người ác, những cái ác và cái xấu sẽ rất nhiều và lẫy lừng trong xã hội. Lúc đó không gặp Phật Pháp thì làm sao mình thoát khỏi sanh tử luân hồi tới lúc đó mình rơi vào Tam Ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh rất là dễ.

    Nếu có người hỏi tại sao Phật A Di Đà không tiếp dẫn tất cả những chúng sinh? Phật A Di Đà muốn tiếp dẫn tất cả những chúng sinh, nhưng chúng sinh đó phải có duyên với Ngài. Không có duyên Ngài không độ giúp được. Nếu người ta không muốn về mình không bắt ép người ta được, như thế dẫn đến hậu quả không tốt. Người đó không nguyện vãng sanh Cực Lạc thì làm sao đưa người đó về Cực Lạc được, họ vẫn còn si mê cho rằng cõi này vui và họ còn tham chấp yêu thích cõi Khổ này và họ không muốn vãng sanh. Và có người họ không biết pháp môn Tịnh Độ thì làm sao họ nguyện mà về được. Không phải họ không muốn biết và tu theo pháp môn Tịnh Độ, mà họ không có duyên lành với Phật Pháp và họ không có thiện căn phước đức để có duyên gặp pháp môn Tịnh Độ. Bởi thế, mình có duyên gặp được pháp môn Tịnh Độ này là mình có duyên lành tốt và thiện căn phước đức nhiều. Nay mình nên tạo duyên với Phật A Di Đà bằng cách tu theo pháp môn Tịnh Độ và có đầy đủ Tín Nguyện và Hạnh (tức là trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật), thì chắc chắn mình được vãng sanh Cực Lạc sau kiếp này.

    Luân hồi sanh tử khổ đau
    Khổ không sao nói cho hết
    Khổ thân rồi đến khổ tâm
    Khổ từ đời này sang đời khác
    Khổ từ kiếp này sang kiếp khác
    Người trí huệ tìm cách thoát khổ
    Kẻ si mê thấy khổ vẫn vui
    Vui trong đau khổ khổ hoài khó ra

    Tịnh Độ là dứt luân hồi đau khổ
    Tịnh Độ là vui
    Vui không sao nói cho hết
    Vui được nghe Pháp vui gần Thượng Thiện Nhân
    Vui cảnh vật Trang Nghiêm cõi Cực Lạc
    Vui trong tu hành giải thoát
    Vui không sanh tử luân hồi
    Vui không sanh, tử, bệnh, già
    Vui không phiền não vui thiệt là vui
    Khuyên ai gắng sức lo tu
    Tu theo pháp môn Tịnh Độ một đời
    Vãng Sanh Cực Lạc thoát khỏi phàm phu
    Tu liền chớ nên đợi chờ
    Thân người mong manh như bọt biển
    Vô Thường không phân biệt nữ nam
    Đừng để cái chết gần kề
    Đừng chờ đừng đợi đừng kẻo hoài nghi
    Hãy tu liền mau kẻo muộn
    Pháp môn Tịnh Độ dễ lắm ai ơi
    Người nào tu cũng được vãng sanh
    Vãng Sanh Cực Lạc sướng chừng biết bao

    Thiện Thông [Cư sĩ]

    Chú thích: (1) Khổ: có 8 cái khổ là sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, ái biệt ly khổ (người mình thương xa cách là khổ), oán tắng hội khổ (kẻ thù gặp nhau là khổ), cầu bất đắc khổ (cầu muốn điều gì mà không được là khổ), năm ấm hưng thạnh là khổ. (2) 48 lời nguyện: tức là 48 lời nguyện của Pháp Tạng Tỳ Kheo trong quá khứ, nay là Phật A Di Đà. 48 lời nguyện của Ngài là tạo nên cõi Cực Lạc hiện nay và nguyện tiếp dẫn những chúng sanh mười phương chí tâm, tin, ưa muốn vãng sanh cõi Cực Lạc và niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. 48 lời nguyện của Phật A Di Đà đã thành tựu và Ngài đã thành Phật đến nay đã được 10 kiếp. (3) Tha tâm thông: khả năng biết tâm chúng sanh muốn gì, suy nghĩ gì, nguyện gì… (4) Phẩm vị vãng sanh: Cõi Cực Lạc có 9 phẩm vị vãng sanh: Thượng Thượng, Thượng Trung, Thượng Hạ, Trung Thượng, Trung Trung, Trung Hạ, Hạ Thượng, Hạ Trung va Hạ Hạ. (5) Nghiệp: là hành động tạo tác của thân, khẩu và ý. Nghiệp có hai loại: Nghiệp Thiện và Nghiệp Ác. Nghiệp Thiện là hành động tạo tác thiện của thân, khẩu và ý. Nghiệp Ác là hành động tạo tác ác của thân, khẩu và ý
    Nguồn: Ðịa Tạng Vương Bồ Tát
    .

    Giữ gìn và nuôi dưỡng những hạt giống tốt

    T.S. Thích Nhất Hạnh

    1. Mỗi khi xuất hiện, cái giận lại nuôi dưỡng thêm những hạt giống giận hờn trong tàng thức của ta. Nếu cái giận kéo dài trong năm phút thì biết bao nhiêu hạt giống chứa đựng cái giận lại được sinh sôi trong suốt thời gian năm phút đó.Tâm ta có hai phần: phần tàng thức là nơi cất giữ những hạt giống và phần ý thức là nơi mà các hạt giống biểu hiện. Ví dụ trong tàng thức ta có một hạt giống của cái giận. Khi nhân duyên đầy đủ thì hạt giống đó phát hiện thành một năng lượng gọi là cơn giận. Nó đốt cháy ta và làm ta đau đớn. Ta không còn vui khi hạt giống đó phát hiện trên phần ý thức ta.

       Vì vậy ta phải hết sức cẩn thận để lựa chọn lối sống cũng như những cảm xúc của ta. Khi ta nở một nụ cười thì hạt giống hạnh phúc được biểu lộ. Khi biểu lộ, nó gieo thêm những hạt giống tươi vui xuống tàng thức. Nếu ta không thực tập cười trong nhiều năm, hạt giống đó sẽ yếu đi và ta sẽ không còn có khả năng để cười được nữa.

      Tàng thức ta chứa đựng mọi hạt giống, tốt cũng như xấu. Một số do ta gieo trồng trong đời sống hàng ngày, một số do ông bà cha mẹ và xã hội trao truyền. Một hạt lúa nhỏ xíu chứa đựng cái biết của bao nhiêu thế hệ cây lúa về cách thức đâm chồi, trổ lá, ra hoa và hình thành bông lúa. Thân thể và tâm thức ta cũng vậy, được trao truyền cho ta từ bao nhiêu thế hệ; ông bà cha mẹ đã gieo trồng trong ta biết bao hạt giống an vui, hạnh phúc và cả những hạt giống khổ đau, buồn giận v.v…

      Mỗi khi ta thực tập chánh niệm là ta gieo trồng và củng cố những hạt giống lành mạnh đã có sẵn trong ta. Những hạt giống này cũng như những kháng thể. Khi có một con vi khuẩn chạy vào máu ta, lập tức thân thể ta có phản ứng, những kháng thể chạy tới bao quanh con vi khuẩn bắt nó phải biến dạng. Cũng vậy, nếu trong ta có nhiều hạt giống tươi mát lành mạnh, những hạt giống này sẽ biết cách đối phó với những hạt giống không tốt mà không cần đợi ta ra lệnh. Do đó, điều ta cần làm là dự trữ cho thật nhiều những hạt giống tốt.

      Một ngày nọ, chúng tôi được tin ông bạn láng giềng của chúng tôi, ông Mounet, qua đời. Ông là người Pháp và sống ở cạnh Làng Hồng. Ông là một người rất hiền hòa, dễ mến, ông đã giúp chúng tôi rất nhiều trong việc xây dựng Làng. Ông chết trong đêm vì bệnh tim, và sáng hôm sau chúng tôi được tin. Nghe qua chúng tôi rất bàng hoàng, vừa cảm thấy hối hận đã không để nhiều thì giờ tiếp xúc và sinh hoạt với ông.

      Tối hôm đó tôi khó ngủ. Mất một người bạn như ông là một điều đau đớn. Sáng hôm sau, tôi phải nói pháp thoại nên đêm đó tôi cố gắng dỗ giấc ngủ bằng cách niệm hơi thở. Trời mùa đông rất lạnh. Nằm trong chăn ấm, tôi nghĩ đến ba cây tùng loại Hy Mã Lạp Sơn tôi trồng trong sân của sơn cốc cách đó đã tám năm. Bây giờ cả ba cây đều lớn và rất đẹp. Mỗi khi đi thiền hành tôi đều dừng lại để vừa ôm cây vừa theo dõi hơi thở. Tôi tin rằng mấy cái cây cũng đáp ứng lại cái ôm của tôi. Nằm trong chăn, tôi tập thở và thấy mình vừa là ba cây tùng vừa là hơi thở. Tôi thấy dễ chịu hơn nhưng vẫn chưa ngủ được. Cuối cùng tôi nghĩ đến bé Trúc. Bé đến làng lúc hai tuổi, bé rất kháu khỉnh nên ai cũng muốn bồng muốn ẳm, nhất là các em nhỏ. Bây giờ bé đã sáu tuổi. Em bé trên tay ai cũng cảm thấy mình tươi mát như bé. Cho nên tôi đã mời bé hiện lên trong ý thức của tôi. Tôi thở và mỉm cười với bé. Một lúc sau thì tôi thiếp đi.

      Mỗi người chúng ta nên có một kho dự trữ những hạt giống lành, đẹp và mạnh để khi ta gặp khó khăn, chúng có thể đến giúp ta. Ðôi khi niềm đau quá lớn nên dù có bông hoa trước mắt ta cũng không thưởng thức được. Nhưng nếu ta có một cái kho dự trữ những hạt giống lành mạnh, ta có thể mời chúng đến giúp ta. Cũng như khi mình có một người bạn thân biết hiểu và thương mình, được ngồi gần người đó, dù không nói tiếng nào, mình vẫn cảm thấy khỏe khoắn. Và những lúc khó khăn mình thường nghĩ về người đó để “cả hai” cùng im lặng thở và mình thấy dễ chịu hơn.

      Nếu lâu ngày ta không gặp người bạn kia thì hình ảnh về người ấy có thể phai mờ. Mà nếu người bạn ấy là người duy nhất có thể giúp ta thì ta chỉ còn cách mua vé xe lửa đến gặp người bạn ấy. Người bạn sẽ hiện ra bằng xương bằng thịt chứ không phải chỉ là một hạt giống trong tiềm thức.

      Thời gian được ở gần người bạn, ta phải biết sống cho tỉnh thức, đừng để phí một giây phút nào, bởi ta đâu có được ở lâu, lý do là ta còn phải về nhà. Người bạn giúp ta lấy lại sự quân bình nhưng chính ta cũng phải tạo cho ta sự vững chải bên trong, nếu không thì lúc trở về một mình, ta lại cảm thấy chới với. Cho nên ta đừng nên kể lể than vãn nhiều, hãy chia sẽ niềm vui, để khi trở về nhà, ta sẽ có nhiều kỷ niệm đẹp, nhiều hạt giống tươi mát tốt lành, để khi hữu sự, gặp chuyện buồn phiền, chúng có thể giúp ta vượt qua những khó khăn.

       

    Nguồn: Ðịa Tạng Vương Bồ Tát

    Người học Phật tôn thờ hình tượng

    1. Mặc dù người Phật Tử theo tập tục giữ hình ảnh Đức Phật để tỏ lòng tôn kính Ngài, nhưng họ không phải là người tôn thờ thần tượng. Sùng bái thần tượng thông thường có nghĩa là dựng lên hình ảnh của nam hay nữ thần không biết rõ nào đó trong nhiều kiểu và cỡ khác nhau, và cầu nguyện thẳng với các hình ảnh ấy. Người cầu nguyện xin thần linh hướng dẫn và bảo vệ họ. Họ cầu xin nam hay nữ thần ban cho họ sức khỏe, của cải, tài sản, và cung cấp cho họ những nhu cầu cần thiết, họ xin được tha tội.Việc lễ lậy hình ảnh Đức Phật lại là một vấn đề hoàn toàn khác hẳn. Phật Tử tôn kính hình ảnh Đức Phật là một hành động để tỏ thiện ý tới một bậc thánh thiện cao cả, uyên bác, nhân đức, và từ bi nhất chưa từng có trên thế giới này. Đó là một sự kiện lịch sử vì con người vĩ đại này đã sống trên thế giới và đã triệt để phục vụ nhân loại. Sự lễ lạy Đức Phật thực sự có nghĩa dâng lòng kính trọng, tán tụng và thành tâm lên Ngài, và lên những gì mà Ngài tượng trưng chứ không phải lên một hình tượng bằng đá hay bằng kim khí.

      Hòa thượng K. Sri Dhammananda  
      Thích Tâm Quang dịch Việt