Tuyển Tập Thành Đạo 2

Recent Pages:  1  2  3

  1. Ngày mở ra cách nhìn mới cho nhân loại

    1. Ngày Bồ tát Tất đạt đa thành Phật ở nơi cõi Ta ba nầy là mở ra cho nhân loại một cách nhìn mới, một cách tư duy mới, một cách phát ngôn mới, một cách hành động mới, một cách sống mới, một cách nỗ lực mới, một cách ghi nhận mới và một cách trầm tĩnh mới.Cách nhìn mới là cách nhìn không bị rơi vào những cục bộ phiến diện do sự điều động bởi những nhận thức sai lầm từ một bản ngã phàm tục hay siêu nhiên. Cách nhìn mới ấy, là cách nhìn thấy rõ mọi sự hiện hữu trong sự tương quan duyên khởi. Một sự hiện hữu có mặt trong mọi sự hiện hữu và mọi sự hiện hữu đang dung chứa ở trong một sự hiện hữu. Chúng hiện hữu với nhau trong sự dung thông toàn thể, sống động mà không có bất cứ một cá thể nào có thể tồn tại độc lập. Sự tồn tại của một cá thể độc lập kể cả cá thể siêu nhiên chỉ là những ý niệm điên đảo vọng tưởng, chúng khởi lên từ tâm thức yếu hèn, hay tâm thức đầy cao ngạo và mù quáng.Tư duy mới là tư duy không thiết lập trên nên tảng hữu ngã mà trên nền tảng của các pháp duyên khởi vô ngã, để chứng nghiệm tự tánh viên thành nơi vạn hữu.

      Cách phát ngôn mới là cách phát ngôn không quay về cho bản ngã hay cho bất cứ một cá thể nào mà chỉ nhắm tới hiển thị sự thực làm lợi ích cho toàn thể.

      Cách hành động mới không phải là cách hành động nhắm tới lợi ích cho cá nhân mình mà cho tất cả mọi người và muôn loài. Cách hành động ấy có khả năng làm ngưng chỉ những nguyên nhân sinh khởi khổ đau và là động cơ dẫn sinh mọi đời sống an lạc.

      Cách sống mới là cách sống giản dị mà sâu lắng, đơn giản mà thanh cao, không đặt đời sống của mình trong tháp ngà ảo vọng mà đặt đời sống của mình liên hệ đến nhân quả tốt đẹp không phải chỉ đời nầy mà cả nhiều đời về sau; không phải chỉ biết đặt sự liên hệ đời sống của mình trong một phạm trù mà là toàn thể và không đặt sự tồn tại sinh mệnh của chính mình ở trong ngũ dục mà ở trong sự tịch tịnh các dục.

      Cách nỗ lực mới là nỗ lực nhìn thấy sự thực của khổ đau mà chuyển hóa những nguyên nhân của nó, chứ không phải nỗ lực tránh né hay khắc phục hậu quả khổ đau; nỗ lực mới là nỗ lực phát huy những tiềm năng tốt đẹp vốn có và nỗ phát huy những tiềm năng ấy đến chỗ toàn hảo; nỗ lực mới là nỗ lực khơi mở và yểm trợ cho những người khác nhận ra được tiềm năng tốt đẹp vốn có của họ và giúp cho họ phát triển tiềm năng ấy đến chỗ toàn hảo, để cho tất cả thế giới đều được sống ở trong thế giới toàn hảo và được bảo chứng bởi những chất liệu toàn hảo mà do chính hành động tốt đẹp của mỗi người tạo ra cho mọi người và mọi người tạo ra cho mỗi người.

      Cách ghi nhận mới là cách ghi nhận không lầm lẫn giữa cái nầy với cái kia, giữa tác nhân nầy với tác nhân kia, giữa tác duyên nầy với tác duyên kia, với bản chất nầy với bản chất kia, với hiện tượng nầy với hiện tượng kia,…với cách ghi nhận mới như vậy, chúng có tác dụng tạo ra sự trầm tĩnh sâu lắng cho tâm ta, khiến cho tâm ta càng lúc càng vững chãi, không bị tác động bởi những hấp dẫn của ngũ dục thế gian. Sống ở đâu, lúc nào và tiếp xúc với ai cũng có ý thức sáng trong, tự chủ và tĩnh tại.

      Bởi vậy, ngày thành đạo của Bồ tát Tất đạt đa đã mở ra cho nhân loại một kỷ nguyên mới về sự hiểu biết, về hành động, cách phát ngôn,… tất cả đều chuyển tải nội dung của trí tuệ và từ bi toàn hảo, đem lại sự an lạc và hòa bình cho những ai, cho những cộng đồng nào biết chấp nhận và sống bằng đời sống có nội dung của chất liệu ấy.

      Không có ngày thành đạo của Bồ tát Tất đạt đa, sẽ không có sự kiện chuyển Pháp luân của Ngài ở vườn nai, và ở trên đời nầy không bao giờ có Phật, Pháp, Tăng xuất hiện một cách toàn vẹn đầy đủ cả sự và lý làm chỗ nương tựa an ổn cho chư Thiên và loài người trong biển đời sinh tử.

      Vì vậy, kỷ niệm ngày Bồ tát Tất đạt đa thành Phật, Tăng Ni Phật tử chúng ta, không phải chỉ kỷ niệm suông trên ngôn ngữ, trên những hiểu biết tri thức hay trên những biểu hiện lễ nghi trống rỗng mà phải từ nơi niềm tin chân thực và trái tim bồ đề của chúng ta. Và chúng ta càng không nên biến ngày ấy trở thành một ngày lễ hội mà phải biết biến ngày ấy là ngày của chánh kiến, chánh trí và chánh giải thoát.

      Hãy giải thoát cho nhau thoát khỏi những ràng buộc của tham sân si, cố chấp và tà kiến; hãy mở ra cho nhau những buộc ràng vô lối, những qui ước phàm tục và hãy hiến tặng cho nhau những tự do căn bản và tối thiểu của tâm hồn, để từ đó cùng nhau tu tập bước tới địa vị giác ngộ toàn hảo, đem lại lợi ích cho hết thảy muôn loài.

      Chúng ta nỗ lực thực tập và nguyện sống với những gì cao quí của hạnh và nguyện như thế là chúng ta đã làm cho ngày thành đạo của đức Thế Tôn chúng ta hiện hữu một cách sống động và thực tế. Ngày cao quí ấy đã, đang và sẽ đến với chúng ta và chúng ta cũng đã, đang và sẽ đi đến với ngày ấy một cách toàn hảo không phải chỉ thuần túy bằng đức tin mà bằng chính hành động “quên mình giữa tất cả mọi người của chúng ta”.

      Thích Thái Hòa

QUAN NIỆM VỀ NIẾT BÀN 

Thích Lệ Thọ

Mặc dù vẫn biết không dễ dàng tiếp cận cánh cửa Niết-bàn, nhưng chúng ta tạm lấy một cọng tóc chẻ ra làm bảy, rồi lấy 1/7 này chẻ ra làm 7, chẻ đi chẻ lại 7 lần thì xem ra vẫn còn lớn hơn cánh cổng này một chút về phương diện lý luận. Nhân ngày vía Phật Thành đạo năm 2013, chúng ta thử tiếp cận danh từ Niết-Bàn bởi nó vẫn là nguồn cảm hứng bất tận đối với những ai quan tâm đến quả vị giải thoát trên bước đường tu tập.

Một hành giả tu tập đạt được quả vị A- La-hán xem như tương đồng với Niết-Bàn (hữu dư). Tuy nhiên, trên bình diện Pháp tướng, vấn đề này vẫn còn có nhiều góc độ khảo sát để thỏa mãn tri thức. Mặc dù vẫn biết không dễ dàng tiếp cận cánh cửa Niết-bàn, nhưng chúng ta tạm lấy một cọng tóc chẻ ra làm bảy, rồi lấy 1/7 này chẻ ra làm 7, chẻ đi chẻ lại 7 lần thì xem ra vẫn còn lớn hơn cánh cổng này một chút về phương diện lý luận. Nhân ngày vía Phật Thành đạo năm 2013, chúng ta thử tiếp cận danh từ Niết-Bàn bởi nó vẫn là nguồn cảm hứng bất tận đối với những ai quan tâm đến quả vị giải thoát trên bước đường tu tập.

HAI LOẠI NIẾT BÀN:

  1. Hữu-dư-niết-bàn: (Saypadisesa nibbàna) Hữu-dư-niết-bàn là chỉ cho người đã đạt đến cảnh giới thoát khỏi vòng luân hồi nhưng nhục thể vẫn còn tồn tại.
  2. Vô-dư-niết-bàn: (Anupadisesa nibbàna).Vô-dư-niết-bàn là cảnh giới vĩnh viễn, phần nhục thể không còn hiện hữu nữa.

Phân biệt để giải thích như trên mà gọi là Hữu-dư và Vô-dư thì ý nghĩa giữa hai loại Niết-Bàn nhưng vốn dĩ là “nhị nghĩa đẳng luân”, không sai khác.

Tuy đúng về phương diện lý luận mà nói thì Vô-dư-niết-bàn là cảnh giới trên Hữu-dư. Tại sao? Vì còn có thân thể thì dù tâm có muốn thoát ly già, bệnh, chết đi nữa cũng không trách khỏi những nhược điểm của phần nhục thể. Cho nên, chỉ khi nào rút bỏ cả phần nhục thể thì mới vĩnh viễn an toàn.

Song, đây chỉ nói về phương diện lý luận mà thôi, nếu theo ý nghĩa tôn giáo thực tế mà nói thì Phật lại coi trọng Hữu-dư hơn Vô-dư. Vì đức Phật đã tự thể nghiệm Niết-Bàn vĩnh viễn ngay trong hiện tại, và muốn cho chúng sinh cũng thể nghiệm được như ngài.

Như thế không bao lâu, đến khi hết phiền não, thành vô lậu thì được tâm giải thoát, tuệ giải thoát, đối với hiện pháp, tự mình chứng tri, tự mình thực hiện”. Phật thường diễn đạt ý đó với các đệ tử.[1]

Điểm này, đối với những người chứng ngộ cảm nhận được. Cho nên lý giải và thuyết minh niết bàn rốt ráo và cảnh giới Vô dư niết bàn như thế nào đó là vấn đề nan giải. Ngoài ra, về thế giới quan, Phật lại bác bỏ tất cả mọi khái niệm cố định, cho nên người ta cảm thấy vô cùng khó khăn trong việc suy cứu lí luận. Ngay đến những người đã thực chứng Hữu dư niết bàn mà cũng còn cảm thấy vấn đề này khó khăn. Bởi giới hạn ngôn ngữ không thể diễn đạt cái vô hạn.

Dưới cái nhìn của hành giả đang đi vào lộ trình tâmthì đó là trạng thái đã diệt trừ hết mọi phiền não; nói theo nghĩa rộng là đã cắt đứt được mười thượng, hạ phần kết sử; còn nói theo nghĩa hẹp thì đó là sự thủ tiêu hoàn toàn ba độc tham, sân và si.

Hành giả thành công sự phá trừ hết vô minh khát ái, chuyển hóa hết ngã chấp, ngã dục, chỉ còn cái đương thể hoàn toàn vô ngã. Về điểm này, Phật thường gọi Niết-Bàn là tham, sân, si diệt, khát, ái diệt (tanha nibbàna), và vô minh diệt v.v…Xét về từ ngữ niết bàn (nirvàna-nibbàna) thì nó bắt nguồn từ tiếng dập tắt (nirva), chính Phật đã dùng cái nghĩa này để chỉ cái đương thể đã “dập tắt” mọi phiền não, cho nên mới gọi là Niết-Bàn.

Như vậy để đạt đến niết bàn, tức giải thoát, cần phải có cái đương thể của phiền não đã bị tận diệt, nó là cái năng lực tích cực mới phát sinh mà từ xưa chưa từng được kinh nghiệm. Năng lực tích cực này là nguồn gốc của sự bộc phát, cho nên cũng có thể bảo chính nhờ vào đó mà làm cho phiền não tận diệt.

Như trường hợp của Phật, ròng rã sáu năm trời chuyên tâm chuyên trừ phiền não mà chưa thể thành công, nhưng chỉ ngồi tĩnh lặng tư duy trong khoảng bốn mươi chín ngày thì đạt đến đại giác, là vì trong thời gian chuyên tâm tiêu diệt phiền não đã không còn dính líu đến sinh, già, bệnh, chết.

Trên cơ sở này, từ ngữ Niết-Bàn (nibbàna-nirvana), quyết không phải chỉ có nghĩa là dập tắt, nó được dùng để biểu thị cái cảnh giới diệu lạc tối cao.[2] Lại nữa, Phật bảo niết bàn là cảnh giới bất tử (amala), là nơi tuyệt đối an ẩn (yogakikhama), là mát rợi (sitibhava) v.v… Để diễn đạt quan điểm tương đồng đó đức Phật hay dùngthường, lạc, ngã, tịnh để chỉ cho giải thoát.

“Tỷ khưu! Bất sinh (ujata), bất thành (abhuta), vô tác (akata), vô vi (ankhata), Tỷ Khưu, nếu không có bất sinh, bất thành, vô tác, vô vi thì sinh, thành, tác, hữu vi không có chỗ y chỉ (nissarana). Tuy nhiên, Tỷ khưu, vì có bất sinh, bất thành, vô tác, vô vi nên sinh, thành, tác, hữu, vi mới có chỗ dựa”.[3]

Bất sinh, bất thành, vô tác, vô vi là chỉ cho cái đương thể của niết bàn, vì có cái đương thể của niết bàn nên thế gian sinh diệt mới có chỗ dựa tối hậu. Như vậy thì niết bàn quyết không phải là cảnh giới tiêu diệt, tán hoại hay dập tắt.

Tóm lại, cảnh giới Hữu dư niết bàn, về phương diện tiêu cực, là nơi không còn phiền não, đồng thời, về phương diện tích cực, thì đó là căn cứ của cảm giác về cái năng lực thường hằng bất biến.

Theo Phật, vạn pháp hết thẩy đều do nhân duyên sinh, ngoài nhân duyên ra không có một vật gì tồn tại, và đây là một luận thuyết không hiểu được một cách dễ dàng. Do đó Phật bảo “Trước biết pháp trụ, sau biết Niết-Bàn” (Pubbe dham-matthitinànam pacchà nibbàne nànanti).[4]

Hơn nữa, chính Phật và các đệ tử của ngài cũng thường ví dụ Vô-dư-niết-bàn như ngọn đèn hễ “dầu hết thì lửa tự tắt”. Và cứ theo ví dụ ấy mà suy ra thì không thể bảo là hư vô được. Hãy dùng tuệ tri để hiểu Niết Bàn là một sự tồn tại không thể diễn tả, không thể tưởng tượng, nó bất khả tư nghì.[5]

Ở đây lại có điểm ta cần đặc biệt chú ý là: trong số các đệ tử của Phật nếu có ai hiểu Vô dư niết bàn là hư vô thì Phật và các đệ tử trưởng lão đều quở trách và dẫn dụ cho họ hiểu một cách chân chính. Chẳng hạn trường hợp Diệm ma ca tỷ khưu (Yamaka), ông này thường cho rằng Lậu tận La Hán là cõi “tuyệt vô”, không có một vật gì cả. Các tỷ khưu khác thấy thế đều cho Diệm ma ca bị tà kiến lung lạc bèn hết sức khuyên can, nhưng Diệm ma ca không chịu từ bỏ ý kiến ấy của mình; cuối cùng họ phải thỉnh Xá lợi phất nói pháp cho Diệm-ma-ca hiểu. Ngài Xá lợi phất bảo Diệm-ma-ca rằng năm uẩn không phải là Như Lai, nhưng, đồng thời ngoài năm uẩn cũng không có Như Lai. Để cho Diệm-ma-ca biết ý kiến của mình là sai lầm.[6]

Ngài Xá lợi phất trực tiếp nói đến cái đương thể của niết bàn, về Như Lai giải thoát năm uẩn và vô ngã v.v… thì liền từ bỏ chủ trương của mình, như vậy, rò ràng trong đó Diệm ma ca cũng đã mặc nhiên hiểu qua cảnh giới niết bàn. Tức cái đương thể của bất sinh, bất thành, vô vi, vô tác chính thực là nơi nương tựa thường hằng, nơi tuyệt đối an ẩn, tuy là cái tuyệt đối không biểu tượng, nhưng bản thân nó lại là cảnh tuyệt đối hữu mà người ta có thể chứng nghiệm được: “Trong tất cả các pháp, Niết-Bàn là hơn hết; là thiện, là thường, siêu việt hẳn các pháp khác”[7] Quan điểm kinh Đại Bát Niết Bàn gọi là Thường, Tịnh, ngã, Lạc cũng không ngoài ý nghĩa trên.

Như vậy, cảnh giới Vô-dư-niết-bàn là cảnh giới tuyệt đối vắng lặng, vĩnh viễn bất động: vì nó là đương thể của pháp tính tuyệt đối, của ý chí tuyệt đối. Nhưng, nếu đứng trên lập trường hiện tượng giới mà nhận xét thì đó chẳng qua chỉ là thực hiện cái lý tưởng “ẩn mất không hiện” trong mắt chúng sinh.

Bắc truyền đã quan niệm Vô-dư-y-niết-bàn-pháp-tính tuyệt-đối này, bằng cụm từ chân-như-pháp-tínhBất-trụ-niết-bàn đã được đề cập nhiều lần từ thời đức Phật để diễn đạt tư tưởng không cho Bát-Nhã;Chư pháp thực tướng quan của Pháp-Hoa và tư tưởng Di-Đà bất sinh bất diệt của kinh Đại Vô Lượng Thọ.[8] Cho chúng sinh dễ hiểu, và lãnh hội rốt ráo ý chỉ của Phật trong quá trình tu tập hướng đến quả vị giải thoát. Dù đứng trên quan điểm nào để hiểu hai chữ Niết-bàn là nhiệm vụ bất khả thi vì Niết Bàn là thực tại vượt ngoài ngôn ngữ. Như người uống nước tự biết nóng lạnh độ nào. Việc giải thích Niết-bàn ra làm sao cũng giống như việc tả màu trắng cho người mù nó giống màu trắng của tuyết. Hoặc con rùa diễn tả nắng ấm gió mát trên mặt đất cho những con cá dưới nước hiểu. Chúng ta chỉ có thể cảm nhận khi đã sở đắc, bằng không càng giải thích càng không chính xác và chúng ta càng đi xa thực tại.

[1] Thiện Nhân Vãng Kinh, pp. 5-6; Tăng 7, p. 307. Sự khu biệt Hữu-dư, Vô-dư Niết Bàn.

[2] xem luận án của Dr W. Stel trong Jonrnal of Pàli Text Society quan niệm về Niết-bàn (1919-20).

[3] Itivuttka 43 text p. 37.

[4] Tạp A Hàm 34, p. 510.

[5] “Thế nào gọi là cõi Vô-dư-niết-bàn? Này các Bật-Sô! Đó là trạng thái đã chứng được La-Hán, đã nết sạch các phiền não, phạm hạnh đã được thành lập, việc cần đã làm trọn đủ, đã vứt bỏ mọi gánh nặng, đã chứng tự nghĩa, đã khéo giải thoát, đã được biết khắp. Tất cả đều cảm thụ bây giờ điều không do nhân dẫn đến, không còn cầu mong, hi vọng cũng hết, rốt ráo tịch lặng, vĩnh viễn trong mát, chỉ còn y vào cái thanh tĩnh không hí luận, không thể bảo rằng có, chẳng thể nói rằng không, mà cũng không thể cho là cũng có, cũng không, mà cũng chẳng thể bảo là chẳng phải có, chẳng phải không mà chỉ nói không thể diễn đạt, rốt ráo niết bàn, cho nên gọi là cõi Vô-dư-niết-bàn”. (Bản Sự kinh quyển 3 tr. 350b. Itivuttaka 44).

[6] S, III, pp. 109-115, Tạp 34, p. 510.

[7] Đại-Tỳ-Bà-Sa-Luận 88, p. 414b.

[8] Căn Bản Phật Giáo p. 301 ff.

lotus-beauty

LỊCH SỬ CÂY BỒ-ĐỀ TẠI BỒ-ĐỀ ĐẠO TRÀNG

Diệu Hương

Chính dưới cội bồ-đề này Đức Như lai đã vượt qua tất cả ma vương, để đạt được nhất thiết chủng trí. Hướng về cội bồ-đề, con xin thành tâm đảnh lễ. Đức Thế tôn – Bậc đạo sư của trời người đã tôn trọng kính thờ cây bồ-đề này, con cũng xin hướng về cội bồ-đề vô thượng này, xin thành tâm đảnh lễ!”

Phật giáo là tôn giáo có lịch sử cổ nhất trên thế giới. Thiên chúa giáo xuất hiện sau Phật giáo 600 năm. Hồi giáo cũng bắt đầu truyền đạo sau Phật giáo 1200 năm. Vì vậy hai tôn giáo thế giới lớn sau này cũng đã ảnh hưởng Phật giáo rất nhiều. Ở Ấn Độ, Phật giáo đã thấm sâu vào lòng dân Ấn khoảng 1500 năm và đã bắt đầu gặp sự thù địch của những người theo đạo Á-rập, những người đã xâm lăng Ấn Độ hơn 1000 năm trước. Sau đó 700 năm, Phật giáo đã hoàn tòan bị hủy diệt ở vùng đất phát sinh ra nó, những thánh tích như Bồ-đề Đạo Tràng (Buddha-Gaya), Sarnath (Benares), núi Linh Lhứu (Rajagriha) v.v… đều bị đập phá tan nát. Những đệ tử Phật đã phải bỏ trốn lưu vong qua đất nước núi đồi Tây Tạng mang theo kinh điển của Phật giáo. Vì vậy, sau này khi hồi phục lại, kinh điển Phật giáo ở Ấn Độ đã được tìm thấy rất nhiều ở Tây Tạng.

Bồ-đề Đạo Tràng đã bị lịch sử quên lãng trong vài thế kỷ, không một đòan hành hương Phật giáo nào đến chiêm ngưỡng đảnh lễ. Tuy nhiên, ngày nay Phật giáo tại Ấn Độ đang từng bước khởi sắc lại, Bồ-đề Đạo Tràng nói chung và cây bồ-đề – nơi Đức Phật ngồi thiền và giác ngộ nói riêng cũng đang được khôi phục trở lại. Nhân ngày lễ kỷ niệm Phật Thành Đạo – Phật lịch 2545 đặc biệt được tổ chức tại Bồ-đề Đạo Tràng này, tôi xin được giới thiệu Vài nét về qúa trình tiến triển của cây bồ-đề từ thời Đức Phật cho đến nay. Cây bồ-đề (Bodhi tree) được gọi là “asvatthi,” hoặc là cây Đa (Pipal, pippali). Theo định nghĩa thực vật học, cây bồ-đề là “ficus religiosa” nghĩa là biểu tượng cho trí tuệ và sự giác ngộ của Đức Phật, nên gọi là “cây giác ngộ,” hoặc thường được gọi là “cây bồ-đề.”1

Theo các nhà khảo cổ học cây này được coi là thiêng liêng ngay từ buổi bình minh lịch sử của nền văn minh Indus. Trong bộ Rig Veda, bộ kinh tôn giáo cổ nhất của dân tộc Aryan ở Ấn Độ đã cho biết rằng cây bồ-đề này được kính trọng như vật thiêng liêng ngay từ thời đó.2

Thật ra, trước khi Phật giáo xuất hiện tại Ấn Độ thì cây này cũng được trồng rất nhiều tại đất nước này. Con người ngày xưa rất kính trọng và kiêng sợ những vật to lớn như cây cổ thụ, những hang đá khổng lồ, các dãy núi đồ sộ … vì họ nghĩ rằng đó là nơi trú ngụ của các thần linh, các linh hồn và thậm chí của những ma quỷ xấu ác. Trong thời gian Đạo Phật xuất hiện ở Ấn Độ, lòng tin về những cây này là nơi cư ngụ cho chư thiên và ma quỷ càng thấm sâu hơn nữa. Và trong kinh điển Phật giáo như: Vimanavatthu và Petavatthu cũng đã kể nhiều câu chuyện liên quan đến chỗ cư ngụ của chư thần và ma quỷ trên cây.

Khái niệm thờ cây đạt đến đỉnh cao trong việc thờ cây bồ-đề. Sự quan trọng của nó không chỉ nằm ở bản chất hùng vĩ của cây mà còn là sự kết hợp của sự chứng đạt vĩ đại nhất của Đức Phật, đó là giác ngộ. Vì vậy, cây bồ-đề từ một cây thông thường đã được coi như biểu tượng của chính sự hiện diện của Đức Phật và sự chứng ngộ Phật quả. Có một sự kiện về cây bồ-đề đã xảy ra ngay khi Đức Phật đạt giác ngộ. Đức Phật đã trải qua trọn một tuần lễ bảy ngày nhìn vào cây bồ-đề với ánh mắt biết ơn cây đã che chở cho Ngài những đêm mưa gió bão bùng, những ngày nắng đốt như lửa trong suốt thời gian cho đến khi Ngài đạt giác ngộ. Tất cả những sự kết hợp này đã tạo nên những đặc tính của cây bồ-đề tại Bồ-đề Đạo Tràng – cây giác ngộ.

Sớ luận của Anguttara Nikaya cho biết rằng cây bồ-đề phải được kính thờ, chỉ trừ trường hợp nếu nhánh cây bồ-đề làm chướng ngại mái nhà, bàn thờ, hoặc nó bị mục, hoặc chim đậu dựa trên cây làm dơ bẩn chốn tôn nghiêm chùa chiền thì chúng ta được phép cắt bỏ đi. Theo luật của người Tích Lan trình cho chính phủ Hà Lan vào hậu thế kỷ 18 là nếu ai phá hủy chùa, cây bồ-đề cùng những tài sản thuộc tôn giáo thì sẽ bị chính phủ Tích Lan (Sinhala) quy tội chết.3

Tại Ấn Độ ở mỗi chỗ di tích tôn giáo là di sản văn hóa chung chẳng những của Ấn Độ mà cho cả tòan nhân loại cho nên được bảo vệ rất cẩn thận và mỗi nơi thánh địa đều có bản thông báo chung là nếu ai đập phá làm hư hoại di sản này sẽ bị phạt tội rất nặng. Có luật của chính phủ Ấn xét xử nghiêm minh.

Bình luận về việc thờ phượng cây bồ-đề hiện nay, nhà đại học giả Phật giáo Rhys Davids đã thận trọng nhắc chúng ta rằng việc thờ phượng đối với những vật thể bên ngoài như cây cối là việc không thật sự ích lợi, nhưng vì cây bồ-đề này có ý nghĩa tượng trưng cho cuộc đời Đức Phật và sự giác ngộ tối thượng của Ngài. Ngày nay, những hình thức nghi lễ xung quanh cội gốc bồ-đề ngày một phát triển và không chút suy giảm nào dù đã trải qua nhiều thế kỷ.

Những người nào thực hiện những nghi lễ thờ phượng cây bồ-đề được gọi là “Bodhi Puja.” Bodhi Puja trong ý nghĩa tinh thần là “giác” (bodhi), nghĩa là sự giác ngộ của Đức Phật nhưng trong thực tiễn “bodhi” chỉ có nghĩa là một cây bồ-đề, là một trong những loại cây cổ thụ thế thôi. Vì vậy, ý nghĩa chính của việc thờ phượng tu tập dường như bị mất đi mà chuyển thành hình thức của việc thờ cây đang thịnh hành tại Ấn Độ và khắp nơi suốt trong thời tiền Phật giáo. Ngày nay Bodhi Puja đang thịnh hành ở những nơi tôn nghiêm thiêng liêng và đã hình thành thành một nghi lễ trang trọng chính thức. Những tràng hoa tươi đẹp, những ánh nến lung linh, khói hương trầm thơm ngát, cờ phướng nhiều màu bay phất phới khắp cây bồ-đề, dưới cội bồ-đề và ở xung quanh … đã làm cho cây bồ-đề thiêng liêng mang đầy tính tôn giáo.

Trong kinh Đại Niết-bàn (Maha-Parinibbana) thuộc Trường Bộ Kinh,4 Đức Phật tuyên bố với ngài A-nan-đa rằng Bồ-đề Đạo Tràng nơi có cây bồ-đề là một trong bốn thánh địa mà người con Phật với lòng kính tin nên đến để chiêm ngưỡng lễ lạy và ngài thêm rằng “Người nào thác sanh với lòng tin tưởng khi đi chiêm bái này sẽ được tái sanh vào cõi an vui.”5 Sự thiêng liêng của cây bồ-đề như là một biểu tượng của sự giác ngộ và như là hiện thân của chính Đức Phật. Một lần khi chúng đệ tử đến viếng thăm đảnh lễ Đức Phật ở tu viện Jetavana (Ở Sravasti) lúc đó đại phú Cấp Cô Độc (Anathapindaka) thưa với trưởng lão A-nan trình với Phật nên thiết lập một nơi tôn-đa nghiêm để dâng hương hoa trà quả … trong lúc Đức Phật đi vắng khỏi tu viện Jetavana. Từ việc này, Đức Phật kêu chiết một nhánh bồ-đề từ cây bồ-đề ở Bồ-đề Đạo Tràng để trồng ở cổng tu viện Jetavana. Sau đó để khiến cho cây thiêng liêng hơn, Đức Phật đã ngồi thiền dưới gốc cây bồ-đề này trọn một đêm. Và cây bồ-đề đó cũng trở thành một đối tượng để thờ phượng.

Trong ý nghĩa đó, cây bồ-đề này được nhận thức không chỉ là đối tượng cho giới Phật giáo kính lễ mà còn là một sự biểu hiện tượng trưng cho chính đời sống của Ngài và sự chứng đạt vĩ đại của Ngài. Việc trồng cây bồ-đề như là một đối thể thiêng liêng, đặc biệt khi mà hình ảnh, tượng Phật chưa được phổ biến ở Ấn Độ. Trong kinh Bổn sanh Kalinga-Bodhi6 và Kosiya7 đã kể rằng trong suốt thời gian Phật còn tại thế cây bồ-đề rất được kính trọng và thờ phượng như Đức Phật. Cây bồ-đề được xem là một trong ba đối tượng thiêng liêng, cùng với chùa (cetiya) và điện tháp (patimaghara) cần được thờ phượng. Cả ba đối tượng này được coi trọng như nhau. Tuy nhiên giữa những vật này, thì xá-lợi của Phật được coi trọng và tôn quý hơn cả.

Sau khi Phật nhập diệt, Hoàng đế A-dục đã hết lòng bày tỏ tâm cung kính của mình và lòng tôn trọng bảo vệ cây bồ-đề tại Bồ-đề Đạo Tràng. Vị Hoàng đế Phật tử này đã sai con gái mình là công chúa mà sau này trở thành Tỳ-kheo-ni Sanghamitta chiết một nhánh phía nam của cây bồ-đề mang qua Tích Lan trồng tại thành phố cổ Anuradhapura suốt trong thời vua Devanampiyatissa trị vì. Nhánh cây bồ-đề này vẫn còn xanh tốt cho đến ngày nay. Trong khi cây bồ-đề gốc tại Bồ-đề Đạo Tràng đã bị hủy nhiều lần bởi nhiều thời đại sau đó. Vì vậy, cây bồ-đề được tuyên bố trong lịch sử cây cổ nhất trên thế giới là cây được trồng tại thành phố Anuradhapura này.8

Theo biên niên sử của Tích Lan, Dipavamsa (thuộc thế kỷ IV), Mahavamsa (thuộc thế kỷ V) và Samanta-Pasadika (thế kỷ V) được viết bằng hai ngôn ngữ Pali và Tích Lan cho biết rằng trong lúc vua Devanamapyatissa trị vì vào thế kỷ III trước Tây lịch, thì con trai của Đại đế A-dục là Tỳ kheo Mahinda đã đi truyền đạo tại Tích Lan và đã cảm hóa được vua chúa cũng như những người dân ở hòn đảo bình yên này. Và Ngài đã thành lập Tăng-già Phật giáo đầu tiên tại đây.

Trong thời gian Ngài Mahinda ở Tích Lan, Ngài đã khuyên vua Devanamapyatissa kiến nghị vua A-dục biếu một nhánh cây bồ-đề tại Bồ-đề Đạo Tràng để trồng ở thủ đô Anuradhapura, Tích Lan.

Con gái của vua A-dục là Tỳ-kheo-ni Sanghamita đã qua thăm Tích Lan với mục đích thành lập ni đoàn Phật giáo cho giới nữ tu và đã mang nhánh bồ-đề này qua Tích Lan. Sau này người dân Tích Lan đã gọi cây bồ-đề tại Tích Lan này là “Sri- Maha-Bodhi,” nghĩa là cây bồ-đề thiêng liêng.

Nói về dữ kiện của cây bồ-đề tại Bồ-đề Đạo Tràng và tại Tích Lan, báo The Maha Bodhi, Buddha Gaya, tháng 7, 1903 nói rằng:

“Cây bồ-đề mà Đức Phật Thế Tôn ngồi thiền trước kia bây giờ không còn nữa. Cây đã bị hủy diệt năm 1874 (Pl. 2418). Một nhánh của cây bồ-đề này đã được Tỳ-kheo-ni Sanghamita, con gái vua A-dục mang đến trồng tại thủ đô Anuradhapura, Tích Lan. Khi cây gốc bị hủy diệt năm 1874, một nhánh cây con mới mọc lên và đó là cây bồ-đề sum suê tại Bồ-đề Đạo Tràng hiện nay. Cây mọc rất tươi tốt và rậm đầy lá xanh.”

Khi Hòa thượng Anagarika Dhammapala (người thành lập Hội Maha Bodhi tại Ấn Độ và trên thế giới) đã viếng thăm Bồ-đề Đạo Tràng vào ngày 22-1891 lần đầu tiên người đã quá sung sướng và xúc động trước những thánh tính thiêng liêng liên quan đến cuộc đời và sự giác ngộ của Đức Phật nhưng ngài đã quá đau lòng khi thấy sự suy tàn hư hoại của thánh địa này. Ngài đã ngồi bên cạnh tòa Kim cang (Vajrasana) dưới cội bồ-đề và phát nguyện sẽ hồi phục lại những di tích nơi sanh ra Đạo Phật này. Hòa thượng là một trong những người có công lớn đầu tiên trong việc khôi phục Phật giáo tại Bồ-đề Đạo Tràng nói riêng và Phật giáo Ấn Độ nói chung trong thời điểm của thế kỷ XIX-XX. Và cũng từ nền tảng xây dựng của Hòa Thượng, Hội Maha Bodhi ngày nay đã phát triển và có mặt ở nhiều nước trên thế giới .

Ngày 11/11/1931 ngôi chùa Mulagandhakuti ở Sarnath do Hòa thượng xây dựng được khánh thành. Ngài Thống Đốc Ấn Độ Willingdon và Giám đốc Viện Khảo Cổ Học đã đồng ý mang Xá-lợi của Phật để thờ tại chùa này.9 Và ba nhánh cây bồ-đề được chiết từ cây bồ-đề ở thủ đô Anuradhapura, Tích Lan cũng được mang về trồng tại chùa Mulagandhi ở Sarnath. Ba nhánh bồ-đề này như ba đứa trẻ của cùng một bà mẹ bồ-đề ở Tích Lan mà có gốc gác quê quán tại Bồ-đề Đạo Tràng đã cùng phát triển tươi tốt trong một bức tường bao quanh giữ gìn. Đã hơn 50 năm rồi, hiện nay ba cây bồ-đề chung một tòa xi-măng đã phát triển giống như ba nhánh của một cây, trở thành một nơi thiêng liêng để thờ phượng chiêm ngưỡng cho giới Phật giáo.

Như vậy, từ cây bồ-đề tại Bồ-đề Đạo Tràng trong thời Đức Phật đã được chiết tới trồng tại cổng tu viện Jetavana ở Shravasti. Rồi khoảng thế kỷ thứ III trước tây lịch, một nhánh phía nam của cây bồ-đề tại Bồ-đề Đạo Tràng được chiết trồng tại Tích Lan. Sau đó vào thế kỷ XX, ba nhánh bồ-đề tại Tích Lan lại được mang về Ấn Độ và trồng tại Sarnath, Vườn Nai- Nơi Đức Phật chuyển pháp luân trao gởi bức thông điệp cứu khổ lần đầu tiên cho năm anh em Kiều-trần-như và tất cả loài người chúng ta.

Chúng ta cũng có thể tìm thấy những ghi nhận quý giá đầu tiên về cây bồ-đề tại Bồ-đề Đạo Tràng này sau khi Đức Phật nhập diệt qua các ký sự hành hương của các nhà chiêm bái Trung Quốc.

Ngài Pháp Hiển đã viếng Bồ-đề Đạo Tràng vào năm 400 và trong ký sự hành hương của mình, Ngài đã mô tả về Bồ-đề Đạo Tràng như sau:

“Sa-môn Cồ-đàm đi tới phía trước, đến dưới gốc cây pei-to, trải cỏ cát tường, mặt hướng về phía đông. Ngài bắt đầu an tĩnh tâm và suốt bảy ngày Ngài an hưởng trạng thái an lạc giải thoát đó. Cũng tại nơi này, người ta đã xây một cái tháp đánh dấu nơi Ngài đã đi kinh hành trong bảy ngày từ phía đông qua tây trong khi các chư thiên đã xuất hiện với bảy báu cúng dường tán thán Đức Phật. Cũng có một cái tháp đánh dấu nơi con rùa Mucchalinda đã bao quanh Phật và lấy đầu làm phướng che đầu Ngài khỏi cơn bão táp. Cũng có tháp nơi Đức Phật ngồi trên hòn đá vuông dưới bóng cây Nyagrodha, mặt hướng về phía đông đang nhận sự lễ bái cúng dường của một vị Bà la môn; cũng có một cái tháp đánh dấu bốn vị Thiên vương cung kính cúng dường Ngài bình bát quý. Cũng có tháp đánh dấu 500 vị thương buôn dâng cúng Ngài bánh bắp và mật … “10

Hoặc như Ngài Huyền Trang đã đến Ấn Độ vào năm 629 và đã trải qua 16 năm chiêm bái cũng như tu học ở đây. Trong ký sự của mình, ngài đã kể về Bồ-đề Đạo Tràng như sau:

“Đi về phía tây nam từ đỉnh núi Pragbudhi khoảng 14, 15 dặm, chúng ta sẽ đến cây bồ-đề. Cây này được bao quanh bởi một bức tường gạch cao lớn và vững chắc. Bức tường này hình chữ nhật dài từ đông sang tây, ngắn từ bắc tới nam. Chu vi của nó khoảng 500 bước. Những loại cây hiếm với những đóa hoa xinh đẹp kết tàng lại với nhau. Những cây biển bá với những cây khác mọc đầy cả nền tạo thành một tấm thảm trên đất. Cánh cổng chính mở ở phía đông, đối diện với sông Ni-liên-thuyền (Nairanjana) rộng lớn. Bên trong bức tường bao quanh nơi thánh địa này có nhiều lối đi ngang chéo lẫn nhau ở các hướng. Ở đây có nhiều tháp và đền. Nhiều vị Vua, Hoàng tử và những người nổi tiếng ở Nam thiệm bộ châu (Jambudvipa) có lòng tin với đạo đã xây nhiều chùa tháp ở đây để kỷ niệm.

Chính giữa khu tường là tòa Kim cang (Vajrasana) nơi Đức Phật ngồi thiền. Trong thời xa xưa khi đời Hiền kiếp đã đến lúc viên mãn, khi quả đất được tạo ra thì tòa Kim cang này cũng đã xuất hiện. Nó nằm ngay giữa trung tâm của vũ trụ và đi sâu vào Kim luân rồi ăn sâu xuống lòng đất. Nó được tạo thành bởi kim cương. Chu vi khoảng chừng 100 bước, trên tòa này có 1000 vị Phật đời Hiền kiếp đã ngồi và nhập kim cang định vì vậy mà tòa này được gọi là tòa Kim cang (Vajrasana). Đây là nơi Đức Phật đã đạt thánh đạo, vì vậy nó cũng được gọi là Bồ-đề Đạo Tràng.

Cây bồ-đề bên tòa Kim cang (Vajrasana) chính là cây Tatpala, giống như cây đa (pippali). Ngày xưa khi Đức Phật còn tại thế cây cao vài trăm feet11 vì bị chặt đốn nhiều lần. Vì bị chặt đốt nhiều lần nhưng nó vẫn còn cao khoảng 40, 50 feet. Đức Phật đã ngồi đạt đạo dưới đây nên cây được gọi là cây Tam miệu tam bồ-đề (Samyak sambodhi, Bodhi druma). Thân cây màu vàng trắng. Lá và nhánh cây màu xanh đậm. Lá không bị úa ngay cả trong mùa đông hay mùa hạ, mà chúng vẫn sáng bóng và xanh mát suốt năm không thay đổi. Nhưng vào ngày Đức Phật nhập niết-bàn lá ở đây úa và rơi xuống, nhưng thật kỳ diệu thay ! Sau đó không bao lâu lại tươi tốt như trước đó. Vào những ngày lễ, nhiều đòan hành hương từ nhiều nước đã tập trung tại đây số đông đến hàng ngàn người. Họ thi nhau tưới nước trầm, sữa tươi thơm vào cội bồ-đề, rãi hoa tươi và dầu thơm để cúng dường. Những cờ, phướng, đèn, nến luôn luôn chiếu sáng lung linh tại cây bồ-đề và xung quanh đó.

Cây bồ-đề bị chặt đầu tiên sau khi Đức Phật nhập diệt là do vua A-dục. Vua A-dục trong những ngày đầu trị vì là một vị ngoại đạo và muốn tiêu diệt những dấu vết của Đức Phật nên đã triệu tập một quân đội, ông đã thân hành dẫn đòan quân đến đây để tiêu diệt cây bồ-đề. Ông đã đốn cây tận rễ, chẻ thân, cành và nhánh cây thành những miếng gỗ nhỏ vụn và đổ về phía tây nơi đó. Sau đó ông đã ra lịnh cho một người Bà-la-môn làm lễ thiêu đống gỗ để cúng dường Phạm thiên. Không lâu sau khi những đợt khói tan biến thì lạ kìa, một cây bồ-đề được mọc lên từ đống tro tàn với những cành lá lung linh như lông vũ, cây này được gọi là “cây bồ-đề từ đống tro tàn.” Vua A-dục thấy sự nhiệm màu này liền sanh tâm hối hận. Ông đã dùng sữa thơm tưới vào gốc cây cũ để bón no! Sáng hôm sau cây bồ-đề đã lớn mạnh như cũ. Nhà vua mục kích sự mầu nhiệm này nên tăng trưởng lòng tin mạnh mẽ nên đã phát tâm cúng dường cây, ông cảm thấy an lạc đến độ quên mất việc quay về cung. Hoàng hậu, một tín đồ của Bà-la-môn đã cho một người lén đốn cây vào đầu đêm. Sáng hôm sau khi nhà vua đến để lễ cây thì chỉ còn thấy cái gốc bị chặt nên vô cùng đau lòng. Với tất cả lòng thành Ngài đã cầu nguyện và tưới gốc cây bằng sữa thơm. Không đầy một ngày, cây bồ-đề đã mọc lại như cũ. Nhà vua cảm động trước phép mầu này đã cho xây một bức tường cao 10 feet chung quanh cây. Bức tường này ngày nay vẫn còn thấy. Về sau vua Sasanka theo ngoại đạo và hủy báng Phật giáo đã đến để đốn cây bồ-đề, chặt bỏ tất cả những cành nào lú khỏi mặt đất, nhưng ông không làm sao đốn được gốc cây. Ông bèn cho đốt cây và đổ nước mía để mong tiêu hủy tận gốc rễ của cây.

Sau đó vài tháng, Vua Purnavarama (Phu-lâu-na-bạt-ma)12 của Ma-kiệt-đà, người nối dõi cuối cùng dòng vua A-dục nghe tin đó đã than: “mặt trời của trí tuệ đã lặn, không còn gì để lại ngoài cội bồ-đề và ngay cả nó ngày nay cũng đã bị hủy diệt, nơi nào sẽ cung cấp cho nguồn sống tâm linh.” Ông đã vật mình xuống đất vì đau buồn, sau đó dùng sữa của ngàn con bò để tưới cho cây, qua đêm cây đã một lần nữa sống lại và mọc cao hơn mười feet. Vì sợ cây sẽ bị hại một lần nữa, nên nhà vua cho xây một bức tường cao 24 feet bao bọc cây. Khi Ngài Huyền Trang đến đây thì bức tường vẫn còn cao 20 feet.

Có một người Phạm chí không tin vào Phật pháp và chỉ tôn thờ thần Ma-hê-thủ-la (Shiva). Ông nghe đồn thần Ma-hê-thủ-la sẽ hiện ra trên núi tuyết sơn nên đã cùng với người em đến đó để cầu nguyện. Vua Đế thích hiện ra nói: “những người cầu nguyện cần phải có một công đức lớn. Nếu ngươi cầu nguyện mà không có công đức làm căn bản thì ta không thể nào thỏa mãn lời cầu nguyện của ngươi.”

Người Phạm chí hỏi: “việc công đức nào con phải thành tựu để Ngài thỏa mãn lời cầu nguyện cho con?”

Vua Đế thích đáp: “nếu ngươi muốn làm việc công đức lớn, phải tìm một môi trường thật tốt. Cây bồ-đề chính là chỗ thành đạt Phật quả. Ngươi hãy lập tức quay về đó và xây một tịnh xá lớn cạnh cội bồ-đề, làm một hồ nước lớn và cúng dường tất cả mọi vật. Khi đó ngươi chắc chắn sẽ thành đạt những mong cầu.”

Sau khi nghe những lời trên, người Phạm chí và em mình liền quay về cội bồ-đề. Người anh đã xây một tịnh xá, người em đào hồ, sau đó họ chuẩn bị những đồ cúng dường thịnh sọan và bằng tất cả trí lực họ phát lên những lời tâm nguyện, lời nguyện của họ khi đó lập tức thành tựu. Người Phạm chí được phong làm một vị quan lớn. Ông ta từ đó đem tất cả của cải để làm việc từ thiện.

… Không xa cây bồ-đề về phía nam là một ngôi tháp cao độ 100 feet do vua A-dục dựng lên. Sau khi Bồ-tát đã tắm trong dòng sông Ni-liên-thuyền (Nairanjana), Ngài đi về phía cội bồ-đề. Khi đó Ngài nghĩ rằng: “ta phải làm một chỗ ngồi bằng nguyên liệu gì? Ta phải tìm một thứ gì thật tinh khiết khi trời sáng.” Khi đó trời Phạm thiên biến thành một người cắt cỏ đi dọc theo bờ đường với một bó cỏ trên lưng. Bồ-tát hướng về ông ta nói: “ngươi có thể cho ta bó cỏ đang mang trên lưng không?.”

Người cắt cỏ liền dâng bó cỏ với tất cả sự thành kính. Bồ-tát sau khi nhận của cúng dường liền đi về phía cội bồ-đề “13

Như vậy, qua những dẫn chứng cứ liệu như trên, ta có thể biết rằng trong hành trình lịch sử tìm cầu chân lý, chính dưới cội bồ-đề bên dòng sông Ni-liên-thuyền, thuộc làng Ưu-lâu-tần-loa, thái tử Tất-đạt-đa đã giác ngộ và chỉ bày ánh sáng giác ngộ đó cho tất cả chúng ta . Đây là một sự kiện hiện hữu có thật và được lịch sử chứng minh xác nhận.

Nhà sử học Phật giáo nổi tiếng Taranath cũng đã ghi nhận rằng cuộc xâm lăng đất nước Ma-kiệt-đà của vị vua phía tây, Hunimanta vào thế kỷ I đã tàn phá đại tháp, Canopied Walk đã bị lật đổ và dĩ nhiên cây bồ-đề thiêng liêng nằm trong khói lửa cũng không thoát khỏi số phận hẩm hiu đó. Đến cuối thế kỷ thứ VII, sau sự băng hà của vua Harsha Vardhana, triều đình lọt vào tay của Bà-la-môn Adittya Sena và những cận thần của ông. Suốt trong thời gian này, các nhà chiêm bái Trung Quốc đã viếng thăm thánh địa Bồ-đề Đạo Tràng nhiều lần và đều nói rằng cây bồ-đề vẫn yên lặng bền bỉ sống trước sóng gió của con người và thiên tai. Và cho đến thế kỷ tiếp vào năm 700-800 thuộc triều đại của dòng họ vua Phật tử Pala, vua Purna Vermma đã trồng cây bồ-đề lại bắt đầu năm trị vì của mình khoảng năm 813. Sau đó cây yên ổn sống cho tới cuộc xâm lăng của đội quân hùng hậu Hồi giáo Muhammad Bakhtiyar Khalji vào năm 1201 thì cây bồ-đề đã bị gãy đổ đốt phá cùng với ngôi đại tháp thiêng liêng.

Cùng chung với số phận thăng trầm của lịch sử Phật giáo, cây bồ-đề cũng đã biết bao nhiêu lần bị chặt đốt thiêu hủy do ngọn gió thiên tai xói mòn và do lòng người tàn ác đã biết bao lần muốn xóa tan vết tích của nó. Thế nhưng, kỳ diệu thay! Hạt giống bồ-đề vẫn tìm cách đâm chồi nảy lộc. Sự hồi sanh bắt đầu thay cho mầm hủy diệt và trở lại xanh tốt. Điều này được chứng minh qua sự kiện Dr. Buchanan năm 1811 ông đã viếng thăm Bồ-đề Đạo Tràng và mô tả trong cuốn sách14 của mình như sau: “cây bồ-đề thì đang tràn trề nhựa sống và không thể quá hơn 100 tuổi được. Nhưng có một cây tương tự như vậy đã tồn tại cùng chung chỗ này khi đại tháp vừa hoàn tất công trình xây dựng.”

Thế nhưng vào tháng 12/1862, Sir Alexander Cunningham, nhà khảo cổ học nổi tiếng của nước Anh là người có đóng góp rất to lớn nếu không nói là chủ yếu trong việc khai quật di tích Phật giáo chẳng những ở Bồ-đề Đạo Tràng mà còn ở các thánh địa Phật giáo khác khắp Ấn Độ nữa đã nhận xét như sau: “cây bồ-đề đã bị tàn úa rất nhiều, thân cây hơi ngả về phía tây với ba nhánh lớn vẫn còn màu xanh nhưng những nhánh khác thì đã bị vàng vọt mục nát.”15

Lần thứ hai trong năm 1871 và lần thứ ba trong năm 1875 ông nhìn cây lại thì lúc này hoàn tòan bị héo hon mục nát và chỉ trong thời gian ngắn 1876 trong một cơn bão, cây bồ-đề cũ đã bị cuốn phăng (có hình ảnh minh chứng giai đoạn này của cây bồ-đề do ông Pappe chụp)16, chỉ còn lại thân cây ngã về phía tây của bức tường. Nhưng may mắn thay có nhiều hạt giống đã rơi rớt lại để rồi những mầm chồi con của cây cha mẹ chúng đã nhú mầm sinh sống lại tại nơi đó.

Sau đó năm 1880, Sir Alexander Cunningham thấy nền của tòa Kim cang lộ ra trên sân sau của bức tường đại tháp. Điều này đã khiến cho ông nghĩ rằng có thể có vài dấu vế? gì đó về cây bồ-đề cũ tức là cây bồ-đề gốc thời Đức Phật đã sống. Vì vậy, Cunningham đã đào một đọan ngắn đến phía tây của tòa Kim cang. Dưới lớp đất màu hung đỏ, đá hoa cương của tòa Kim cang (Vajrasana) lộ ra, chân tòa cao 3 feet và rộng 30 feet dưới chỗ cây bồ-đề hiện đang sống. Ông cũng khám phá ra được hai khúc rễ dài lớn của cây bồ-đề cũ. Một ngọn dài 6,5 inches,17 và ngọn còn lại dài 4 inches. Có một cột trụ lớn dài 32 feet, cao 30 feet, dày 14 feet đã đứng phía sau chùa hơn 12 thế kỷ nay. Dường như không chắc là có hai phần của thân cây bồ-đề đã bị vua Sansangka chặt vào năm 600-620.

Theo Ashoka Avadana tường thuật thì câu chuyện Tishya Rakshita, hoàng hậu của triều đại vua A-dục chặt cây có khác đi, nhưng kết quả cây bị chặt thì giống nhau.18

Cũng theo ông Cunningham cho rằng vì cây bồ-đề là loại cây phát triển nhanh và có đời sống ngắn, vì vậy hẳn phải có sự kế tục tiếp nối từ các hạt giống nảy mầm, từ thời gian của vua A-dục để xuống cho tới ngày nay, có lẽ trải qua khoảng 12, 15 ngay cả cho đến 20 lần cho sự tiếp nối luân chuyển sống chết … và cây bồ-đề hiện nay thì có lẽ thuộc đời chít chắt thứ 20 rồi. Thế nhưng, theo cuốn Informations at a Glance:19 “cây bồ-đề hiện tại có thể là đời thứ 5 của cây gốc mà trước đó bị hủy diệt nhiều lần do thiên tai hoặc do con người tạo ra.”

Trong biên niên sử của người Miến ghi nhận rằng vua Pasenadhi (Prasenajit) đã xây xung quanh cây bồ-đề một bức tường kép và Dhamma-Ashoka đã xây bức tường thứ ba tại đây.20 Nếu chúng ta chấp nhận lời tường thuật này thì Cunningham đề nghị rằng bức tường kép của vua Pasenadhi phải bằng gỗ cọc nhọn thì có thể sẽ bị mục nát suốt trong hai thế kỷ rưỡi giữa hai triều đại. Cunningham kết luận rằng có thể nó đã bị dẹp đi khi vua A-dục xây dựng đại tháp liền ngay phía đông của cội bồ-đề.

Trước mắt chúng ta hôm nay, cây bồ-đề thật là tươi tốt và đầy lá xanh mởn mơ suốt bốn mùa. Cây mới vừa hơn trăm tuổi. Phía dưới có xây một thành xi măng hình vuông để giữ đất ụ gốc cây và có một tấm vải vàng lớn quấn gần dưới gốc cây để tôn vẻ trang nghiêm cho cây. Rộng ra khoảng hai mét lại có một bức tường vuông nữa bao bọc cây bồ-đề và tòa Kim Cang. Khách hành hương có thể vào bên trong để chiêm ngưỡng cây bồ-đề và tòa kim cang này. Cây bồ-đề được kính thờ và chăm sóc rất cẩn thận. Lúc nào cũng có một vị sư người A? ở chùa Phật giáo Ấn Độ (The MahaBodhi Mahavihar) hay Ban Qủan Trị Đại Tháp Bồ-đề (Buddha Gaya Temple Management Committee) túc trực hướng dẫn, sắp xếp khách chiêm bái vào lễ cây, tụng kinh, ngồi thiền…Đặc biệt vào những ngày lễ thì nơi đây rất đông và tấp nập. Những bông hoa tươi nhiều màu tươi đẹp, những ly nước trong vắt, tinh khiết…được kính cẩn sắp đầy trên tòa kim cang và dưới gốc bồ-đề để cúng dường lên Đấng Thế Tôn, với tâm tha thiết đảnh lễ cây bồ-đề như sau:

“Chính dưới cội bồ-đề này Đức Như lai đã vượt qua tất cả ma vương, để đạt được nhất thiết chủng trí. Hướng về cội bồ-đề, con xin thành tâm đảnh lễ. Đức Thế Tôn – Bậc đạo sư của trời người đã tôn trọng kính thờ cây bồ-đề này, con cũng xin hướng về cội bồ-đề vô thượng này, xin thành tâm đảnh lễ!”21

Ngày nay, Phật giáo đã đang được khởi sắc sinh động tại Ấn Độ, đặc biệt tại Bồ-đề Đạo Tràng nơi đã trở thành trung tâm chính của Phật giáo thế giới. Trong tình hình phát triển tốt đẹp đó, cây bồ-đề cũng đang từng bước chuyển mình tỏa ra sức sống thiêng thiêng. Đó phải chăng là một giai đọan, một chặng đường lịch sử khả quan, đáng ghi nhớ về cội bồ-đề tại Bồ-đề Đạo Tràng nhất là trong thời điểm kỷ nguyên XXI này phải không?

SÁCH THAM KHẢO

Buddha Gaya Temple: Its History, Dipak K. Barua, Buddha Gaya Temple Managerment Committee, Buddha Gaya, 1981.ry, Dipak K. Barua, Buddha Gaya Temple Managerment Committee, Buddha Gaya, 1981.

Informations at a Glance, Buddha Gaya Temple Managerment Committee, Buddha Gaya, 1998., Buddha Gaya Temple Managerment Committee, Buddha Gaya, 1998.

Sambodhi, Maha Bodhi Society of India,Buddha Gaya, 1998, Maha Bodhi Society of India,Buddha Gaya, 1998

The Maha Bodhi 1891-1991, Centenary volumn, The Maha Boddhi Society of India., The Maha Boddhi Society of India.

The Maha Bodhi Journal, The Maha Boddhi Society of India, Calcata, 9/1992. , The Maha Boddhi Society of India, Calcata, 9/1992.

Dharmadoot, The Maha Boddhi Society of India, Sarnath, 2000., The Maha Boddhi Society of India, Sarnath, 2000.

Xứ Phật Tình Quê, tập I, Thích Hạnh Nguyện và Vô Thức, Đại Thừa, 1996.

Hoa Sen (3)

BÀI HỌC THÀNH ĐẠO

(Thân kính tặng Anh Chị Em Áo Lam)

Tâm Minh

Có bốn ý nghĩa của thành đạo là: (i) con đường đi đến Giải Thoát là Trung Đạo; (ii) bằng nỗ lực của tự thân, với sự tu tập đúng Pháp, con người có thể giác ngộ ngay tạiđời này; (iii) nội dung của Thành Đạo là giải thoát, giải thoát đây là giải thoát khỏi tham ái, chấp thủ mà khôngcần thiết phải chạy trốn khỏi cuộc đời, và (iv) mườiđạo quân của ma vương không phải là một thế lực vô minh từ bên ngoài mà chính là ngay tại tâm ta.

***
Một mùa Thành Đạo nữa lại về. Thành Đạo là tên gọi của sự kiện chứng ngộ Niết-bàn. Một lần nữa, lòng chúng ta lại rộn lên niềm hân hoan chào đón ngày Đức Thế Tôn hoàn thành công phu tu tập của Ngài, công phu chuyển đổi vọng tâm để Niết-bàn hiển lộ. Thời điểm Thành Đạo là lúc sao Mai mới mọc, đêm tối vô minh đã tan và ánh sáng trí tuệ đã đến: ánh sáng giải thoát và giác ngộ. Tất cả những sự kiện quan trọng trong cuộc đời Ngài từ Đản Sanh, Xuất Gia, cho đến Tu Khổ Hạnh, chiến đãu với Ma Vương rồi Thành Đạo, Nhập Diệt v..v.. Thế Tôn đều để lại cho chúng ta những bài học vô cùng quí giá. Hôm nay mùa ThànhĐạo đã về, chúng ta hãy cùng nhau đi vào ý nghĩa Thành Đạo và rút ra những bài học tu tập Đạo giải thoát qua thôngđiệp Thành Đạo của đức Thế Tôn.

Ý nghĩa thứ nhất của Thành Đạo là: con đường đi đến Giải Thoát là Trung Đạo. Sau khi từ bỏ con đường KhổHạnh và Thiền Định Ngoại Đạo, đức Thế Tôn nhập định theo hướng mới (thiền định Phật Giáo) và đi đến chứngđắc Đạo Vô Thượng. Áp dụng bài học này vào cuộc sống, người Phật tử chúng ta cũng tránh xa hai thái cực: một bên là quá hăng hái năng nỗ, nhiệt tình, một bên là quá giảiđãi, buông lung, phóng dật. Sau mỗi lần tu hoc hay mỗi kỳ Đại Hội, y như rằng chúng ta rất hăm hở về Đơn vị,gia đình riêng… áp dụng, truyền đạt, tích cực đóng góp, xây dựng… nhưng cuối cùng thì thường thường là ngọn lửa nhiệt tình ấy đã bị thả nổi, buông lung, cho qua, rời rạc, và đâu lại vào đó. Chúng ta không có kế hoạch đểnuôi dưỡng sự tu tập, vun bồi những chủng tử tốt, loại bỏ những cái xấu v..v.. Chúng ta chưa tự tạo ra thói quen tốt thường soi rọi lại mình và tập cho đàn em chúng ta làm như vậy. Như thói quen ‘Viết Sổ Việc Thiện’ chẳng hạn, đã có từ những ngày xưa (bây giờ là Sổ Hiếu, SổHạnh, Sổ Dũng) không được duy trì và nhắc nhở nên chúng ta không tiến bộ về mặt tu tập. Anh Chị em chúng ta cần lưu tâm về việc này để khỏi mang tiếng người con Phật, người Huynh Trưởng trong Gia Đình Áo Lam mà có khi bị TamĐộc chi phối còn mạnh hơn là một người chỉ mới đến với đạo Phật nữa.

Ý nghĩa thứ hai của Thành Đạo là: bằng nỗ lực của tựthân, với sự tu tập đúng Pháp, con người có thể giác ngộngay tại đời này. Thật vậy, sinh ra là một con người, sống như một con người, Đức Phật đã thành đạt trạng thái giác ngộ bằng chính sự kiên trì và nỗ lực cá nhân. Ngài không nói rằng chỉ một mình Ngài có thể thành Phật mà ngài dạy rằng: “Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành.” Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nghĩa là tất cả chúng sanh đều có thể tu tập để đi đến giác ngộ giải thoát khỏi phiền não khổ đau. Thế Tôn đã mởra cho chúng ta một niềm tin thoát khổ. Sự kiện Thành Đạo vì vậy, như là một lời thọ ký cho tất cả chúng sanh sẽthành Phật trong tương lai. Là con của Ngài, hơn nữa là Huynh Trưởng GĐPT, sau lưng còn có đàn em, chúng ta nguyện nỗ lực tinh tấn trong sự tu sửa mình, xứng đáng là con của NhưLai. Như lai có nghĩa là nói gì làm vậy, làm gì nói vậy.Ở đây chúng ta còn học được thêm một bài học sâu sắc về Thân Giáo của người Huynh Trưởng: người Anh, người Chị phải luôn là tấm gương sáng cho đàn em noi theo. Chúng ta không những dạy Phật Pháp cho các em, mà còn phải hành Phật Pháp qua Thân, Miệng, Ý cho các em noi theo; không chỉ ở Chùa, ở Đoàn, trong giờ dạy.. mà cả ở nhà, ở mọi nơi và trong mọi lúc nữa. Nhiều người nghe nói ‘Thành Đạo trong hiện kiếp’ thì liền ‘la’ lên rằng ‘làm sao tu trong 1 kiếp mà thành Phật được?’ Nhưng họ đã quên rằng Thành Phật trong hiện kiếp không có nghĩa là mới tu trong kiếp này mà đã tu trong vô lượng kiếp và kiếp này là kiếp sau cùng, cũng như Thái Tử Tất-đạt-đa vốn là Bồ-tát HộMinh từ cung Trời Đâu-suất giáng trần vậy.

Một ý nghĩa nữa của ngày Thành Đạo là: nội dung của ThànhĐạo là giải thoát, giải thoát đây là giải thoát khỏi Tham ái, Chấp thủ mà không cần thiết phải chạy trốn khỏi cuộc đời. Thật vậy, tự ngã và lòng ham muốn mãnh liệt nơi ta là ngục tù to lớn nhất giam giữ ta trong sinh tử luân hồi, trong phiền não khổ đau. Trong cuộc sống trước mặt, dù đã có sẵn lý tưởng, phương châm…. đôi khi chúng ta cũng chán nản đến nỗi thốt lên rằng: làm việc GĐPT là vướng vào phiền não, vừa tốn kém năng lượng, thời gian và tiền bạc… Đó là vì chúng ta chưa biết áp dụng bài học này: cái làm cho chúng ta phiền não, tiêu hao năng lượng vô ích không phải là vì sinh hoạt GĐPT mà là vì trong khi sinh hoạt GĐPT, chúng ta còn quá nhiều tham vọng, cố chấp, thị phi…… Nếu chúng ta biết buông bỏ những thứ đó,‘đặt những gánh nặng đó xuống’ nghĩa là làm việc với tâm vô tư, không thành kiến, không phê phán, không kể công… thì ta sẽ được thanh thản nhẹ nhàng như lời đức ThếTôn: ‘Khi tâm ta thanh tịnh, ta thấy thế giới thanh tịnh.’Cũng thế, với tâm thanh tịnh và an lạc, bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào, thời điểm nào và con người nào, đối với người biết tu tập giải thoát đều thấy đó là môi trường lý tưởng, không cần phải thay đổi hoàn cảnh, cuộc sống…gì cả mà chỉ cần thay đổi cách nhìn, cách suy nghĩ đầy ngã tính đã thành tập khí lâu đời của chúng ta.

Ý nghĩa thứ tư của Thành Đạo là: Mười đạo quân của ma vương không phải là một thế lực vô minh từ bên ngoài mà chính là ngay tại tâm ta. Thật vậy, đức Phật đã chỉ tên rõ ràng 10 đạo binh của ma vương; đó là: ham muốn, nản chí, đói và khát, ái dục, dã dượi, hôn trầm, sợhãi, hoài nghi, gièm pha & ngoan cố, chiếm đoạt, tự phụ& khinh thường người khác. Chúng ta thấy rõ ràng đây chính là 10 ‘kẻ thù’ có thể làm cho chúng ta thân bại danh liệt, càng ngày càng lún sâu vào mê lầm của ngã chấp. Do vậy, thành công hay thất bại là do ta có thắng lướt được‘10 tên giặc trong nhà’ này không; chứ không có ai khác quấy phá chúng ta một cách mạnh mẽ và ác liệt hơn 10 tên giặc này. Chúng không những quấy phá bản thân chúng ta mà còn làm ảnh hưởng xấu đến Đoàn thể, tổ chức của chúng ta. Ví dụ như ‘con ma dèm pha & ngoan cố’ làm mất tìnhđoàn kết thương yêu giữa anh chị em mình; con ma ‘tự phụ& khinh thường người khác’ làm ngã chấp tăng trưởng, xét đoán sai lầm, làm cho ta trở nên dễ ghét & khó thân cận dưới mắt mọi người, bạn bè và anh chị em. Con ma‘đói khát’ cũng không kém nguy hiểm -đói khát đây không phải là đói cơm khát nước mà là lòng tham không đáy vềmọi thứ; đói khát đây sẽ đưa đến chiếm đọat ( = chiếm hữu không chân chánh). Chiếm đoạt đây cũng không phải là trộm cắp tiền bạc của cải mà là chiếm đoạt tiếng tốt danh thơm và công lao hay tiếng vỗ tay của người khác chẳng hạn. ‘Con ma’ này luôn thúc giục ta thấy mình đúng – người sai, mình hay- người dở, mình phải-người trái v..v.. nó lôi kéo chúng ta quay cuồng trong dục vọng đen tối, điên đảo thị phi, làm cho ta mất đi cái tâm trong sáng bất sinh của thuở ban đầu. Quả thật đạo quân Ma vương có khả năng lôi ta xuống vực thẳm của khổ đau phiền não. Nhận diệnđược chúng, tất nhiên ta có cách đối phó rồi. Vì vậy, tu tập là luôn tỉnh thức để nhận biết khi chúng vừa xuất hiện dưới hình thức một vọng niệm nhỏ, nhú lên trong tâm ta, đừng chạy theo chúng, nhìn thẳng vào chúng và duy trì chánh niệm, để cho chúng tự sinh tự diệt – tự đến tự đi- thì chúng không thể sai sử hay lôi kéo ta được.Đó là lúc chúng ta phải dùng tới sức mạnh của định tâm; nhờ thường xuyên thiền tập, ta có thể quán chiếu tâm mình, nhận diện chân tướng của 10 đạo quân này dưới bất cứhình tướng nào, nỗ lực tinh tấn loại bỏ chúng, từng tên giặc một, cho đến khi tâm ta đạt được sự an lạc thảnh thơi. Để đối trị và nhiếp phục chúng, ngay trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta phải chuyên tâm tu tập thực hành hạnh Ít Muốn, Biết Đủ, khiêm tốn, bao dung và luôn tinh cần soi rọi tâm mình, ghi nhớ lời Lục Tổ Huệ Năng: tựthấy lỗi mình, không nhìn lỗi người.

Từbốn bài học chung của sự kiện Thành Đạo, chúng ta có thểrút ra những bài hoc nhỏ cụ thể riêng cho bản thân mình, tập thể mình, đơn vị mình, gia đình nhỏ của mình v..v.. Thân kính chúc Anh Chị Em một mùa Thành Đạo an lạc, thảnh thơi và giải thoát.

***
Một mùa Thành Đạo nữa lại về. Thành Đạo là tên gọi của sự kiện chứng ngộ Niết-bàn. Một lần nữa, lòng chúng ta lại rộn lên niềm hân hoan chào đón ngày Đức Thế Tôn hoàn thành công phu tu tập của Ngài, công phu chuyển đổi vọng tâm để Niết-bàn hiển lộ. Thời điểm Thành Đạo là lúc sao Mai mới mọc, đêm tối vô minh đã tan và ánh sáng trí tuệ đã đến: ánh sáng giải thoát và giác ngộ. Tất cả những sự kiện quan trọng trong cuộc đời Ngài từ Đản Sanh, Xuất Gia, cho đến Tu Khổ Hạnh, chiến đãu với Ma Vương rồi Thành Đạo, Nhập Diệt v..v.. Thế Tôn đều để lại cho chúng ta những bài học vô cùng quí giá. Hôm nay mùa ThànhĐạo đã về, chúng ta hãy cùng nhau đi vào ý nghĩa Thành Đạo và rút ra những bài học tu tập Đạo giải thoát qua thôngđiệp Thành Đạo của đức Thế Tôn.

Ý nghĩa thứ nhất của Thành Đạo là: con đường đi đến Giải Thoát là Trung Đạo. Sau khi từ bỏ con đường KhổHạnh và Thiền Định Ngoại Đạo, đức Thế Tôn nhập định theo hướng mới (thiền định Phật Giáo) và đi đến chứngđắc Đạo Vô Thượng. Áp dụng bài học này vào cuộc sống, người Phật tử chúng ta cũng tránh xa hai thái cực: một bên là quá hăng hái năng nỗ, nhiệt tình, một bên là quá giảiđãi, buông lung, phóng dật. Sau mỗi lần tu hoc hay mỗi kỳ Đại Hội, y như rằng chúng ta rất hăm hở về Đơn vị,gia đình riêng… áp dụng, truyền đạt, tích cực đóng góp, xây dựng… nhưng cuối cùng thì thường thường là ngọn lửa nhiệt tình ấy đã bị thả nổi, buông lung, cho qua, rời rạc, và đâu lại vào đó. Chúng ta không có kế hoạch đểnuôi dưỡng sự tu tập, vun bồi những chủng tử tốt, loại bỏ những cái xấu v..v.. Chúng ta chưa tự tạo ra thói quen tốt thường soi rọi lại mình và tập cho đàn em chúng ta làm như vậy. Như thói quen ‘Viết Sổ Việc Thiện’ chẳng hạn, đã có từ những ngày xưa (bây giờ là Sổ Hiếu, SổHạnh, Sổ Dũng) không được duy trì và nhắc nhở nên chúng ta không tiến bộ về mặt tu tập. Anh Chị em chúng ta cần lưu tâm về việc này để khỏi mang tiếng người con Phật, người Huynh Trưởng trong Gia Đình Áo Lam mà có khi bị TamĐộc chi phối còn mạnh hơn là một người chỉ mới đến với đạo Phật nữa.

Ý nghĩa thứ hai của Thành Đạo là: bằng nỗ lực của tựthân, với sự tu tập đúng Pháp, con người có thể giác ngộngay tại đời này. Thật vậy, sinh ra là một con người, sống như một con người, Đức Phật đã thành đạt trạng thái giác ngộ bằng chính sự kiên trì và nỗ lực cá nhân. Ngài không nói rằng chỉ một mình Ngài có thể thành Phật mà ngài dạy rằng: “Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành.” Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nghĩa là tất cả chúng sanh đều có thể tu tập để đi đến giác ngộ giải thoát khỏi phiền não khổ đau. Thế Tôn đã mởra cho chúng ta một niềm tin thoát khổ. Sự kiện Thành Đạo vì vậy, như là một lời thọ ký cho tất cả chúng sanh sẽthành Phật trong tương lai. Là con của Ngài, hơn nữa là Huynh Trưởng GĐPT, sau lưng còn có đàn em, chúng ta nguyện nỗ lực tinh tấn trong sự tu sửa mình, xứng đáng là con của NhưLai. Như lai có nghĩa là nói gì làm vậy, làm gì nói vậy.Ở đây chúng ta còn học được thêm một bài học sâu sắc về Thân Giáo của người Huynh Trưởng: người Anh, người Chị phải luôn là tấm gương sáng cho đàn em noi theo. Chúng ta không những dạy Phật Pháp cho các em, mà còn phải hành Phật Pháp qua Thân, Miệng, Ý cho các em noi theo; không chỉ ở Chùa, ở Đoàn, trong giờ dạy.. mà cả ở nhà, ở mọi nơi và trong mọi lúc nữa. Nhiều người nghe nói ‘Thành Đạo trong hiện kiếp’ thì liền ‘la’ lên rằng ‘làm sao tu trong 1 kiếp mà thành Phật được?’ Nhưng họ đã quên rằng Thành Phật trong hiện kiếp không có nghĩa là mới tu trong kiếp này mà đã tu trong vô lượng kiếp và kiếp này là kiếp sau cùng, cũng như Thái Tử Tất-đạt-đa vốn là Bồ-tát HộMinh từ cung Trời Đâu-suất giáng trần vậy.

Một ý nghĩa nữa của ngày Thành Đạo là: nội dung của ThànhĐạo là giải thoát, giải thoát đây là giải thoát khỏi Tham ái, Chấp thủ mà không cần thiết phải chạy trốn khỏi cuộc đời. Thật vậy, tự ngã và lòng ham muốn mãnh liệt nơi ta là ngục tù to lớn nhất giam giữ ta trong sinh tử luân hồi, trong phiền não khổ đau. Trong cuộc sống trước mặt, dù đã có sẵn lý tưởng, phương châm…. đôi khi chúng ta cũng chán nản đến nỗi thốt lên rằng: làm việc GĐPT là vướng vào phiền não, vừa tốn kém năng lượng, thời gian và tiền bạc… Đó là vì chúng ta chưa biết áp dụng bài học này: cái làm cho chúng ta phiền não, tiêu hao năng lượng vô ích không phải là vì sinh hoạt GĐPT mà là vì trong khi sinh hoạt GĐPT, chúng ta còn quá nhiều tham vọng, cố chấp, thị phi…… Nếu chúng ta biết buông bỏ những thứ đó,‘đặt những gánh nặng đó xuống’ nghĩa là làm việc với tâm vô tư, không thành kiến, không phê phán, không kể công… thì ta sẽ được thanh thản nhẹ nhàng như lời đức ThếTôn: ‘Khi tâm ta thanh tịnh, ta thấy thế giới thanh tịnh.’Cũng thế, với tâm thanh tịnh và an lạc, bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào, thời điểm nào và con người nào, đối với người biết tu tập giải thoát đều thấy đó là môi trường lý tưởng, không cần phải thay đổi hoàn cảnh, cuộc sống…gì cả mà chỉ cần thay đổi cách nhìn, cách suy nghĩ đầy ngã tính đã thành tập khí lâu đời của chúng ta.

Ý nghĩa thứ tư của Thành Đạo là: Mười đạo quân của ma vương không phải là một thế lực vô minh từ bên ngoài mà chính là ngay tại tâm ta. Thật vậy, đức Phật đã chỉ tên rõ ràng 10 đạo binh của ma vương; đó là: ham muốn, nản chí, đói và khát, ái dục, dã dượi, hôn trầm, sợhãi, hoài nghi, gièm pha & ngoan cố, chiếm đoạt, tự phụ& khinh thường người khác. Chúng ta thấy rõ ràng đây chính là 10 ‘kẻ thù’ có thể làm cho chúng ta thân bại danh liệt, càng ngày càng lún sâu vào mê lầm của ngã chấp. Do vậy, thành công hay thất bại là do ta có thắng lướt được‘10 tên giặc trong nhà’ này không; chứ không có ai khác quấy phá chúng ta một cách mạnh mẽ và ác liệt hơn 10 tên giặc này. Chúng không những quấy phá bản thân chúng ta mà còn làm ảnh hưởng xấu đến Đoàn thể, tổ chức của chúng ta. Ví dụ như ‘con ma dèm pha & ngoan cố’ làm mất tìnhđoàn kết thương yêu giữa anh chị em mình; con ma ‘tự phụ& khinh thường người khác’ làm ngã chấp tăng trưởng, xét đoán sai lầm, làm cho ta trở nên dễ ghét & khó thân cận dưới mắt mọi người, bạn bè và anh chị em. Con ma‘đói khát’ cũng không kém nguy hiểm -đói khát đây không phải là đói cơm khát nước mà là lòng tham không đáy vềmọi thứ; đói khát đây sẽ đưa đến chiếm đọat ( = chiếm hữu không chân chánh). Chiếm đoạt đây cũng không phải là trộm cắp tiền bạc của cải mà là chiếm đoạt tiếng tốt danh thơm và công lao hay tiếng vỗ tay của người khác chẳng hạn. ‘Con ma’ này luôn thúc giục ta thấy mình đúng – người sai, mình hay- người dở, mình phải-người trái v..v.. nó lôi kéo chúng ta quay cuồng trong dục vọng đen tối, điên đảo thị phi, làm cho ta mất đi cái tâm trong sáng bất sinh của thuở ban đầu. Quả thật đạo quân Ma vương có khả năng lôi ta xuống vực thẳm của khổ đau phiền não. Nhận diệnđược chúng, tất nhiên ta có cách đối phó rồi. Vì vậy, tu tập là luôn tỉnh thức để nhận biết khi chúng vừa xuất hiện dưới hình thức một vọng niệm nhỏ, nhú lên trong tâm ta, đừng chạy theo chúng, nhìn thẳng vào chúng và duy trì chánh niệm, để cho chúng tự sinh tự diệt – tự đến tự đi- thì chúng không thể sai sử hay lôi kéo ta được.Đó là lúc chúng ta phải dùng tới sức mạnh của định tâm; nhờ thường xuyên thiền tập, ta có thể quán chiếu tâm mình, nhận diện chân tướng của 10 đạo quân này dưới bất cứhình tướng nào, nỗ lực tinh tấn loại bỏ chúng, từng tên giặc một, cho đến khi tâm ta đạt được sự an lạc thảnh thơi. Để đối trị và nhiếp phục chúng, ngay trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta phải chuyên tâm tu tập thực hành hạnh Ít Muốn, Biết Đủ, khiêm tốn, bao dung và luôn tinh cần soi rọi tâm mình, ghi nhớ lời Lục Tổ Huệ Năng: tựthấy lỗi mình, không nhìn lỗi người.

Từ bốn bài học chung của sự kiện Thành Đạo, chúng ta có thể rút ra những bài hoc nhỏ cụ thể riêng cho bản thân mình, tập thể mình, đơn vị mình, gia đình nhỏ của mình v..v.. Thân kính chúc Anh Chị Em một mùa Thành Đạo an lạc, thảnh thơi và giải thoát.

Nguồn: thuvienhoasen

Hoa Sen (1)

 

Chuyển đến trang:  1  2  3