Dharma Talks 4

Recent Pages:  1  2  3  4  5  6

ĐƯỜNG ĐẾN AN BÌNH THẬT SỰ (3)

Trích dẫn
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Trích dịch: Tuệ Uyển
.

– Ngay cả một sự phát triển tâm vô cùng ít ỏi cũng là tiến triển, và tôi nghĩ đây là một lợi ích vô vàn trong sự minh chứng của tâm linh hòa bình. Điều này hóa ra có một tác động tích cực trên sức khỏe. Do thế, bất cứ một khối lượng nào của sự phát triển tinh thần cũng hữu ích.

-Một Pháp Hội không đơn thuần là một buổi tập họp xã hội. Nó là một sự nhắc nhở chúng ta rằng trong đời sống con người, tâm linh là quan trọng; nó có ý nghĩa quan trọng. Chữ Dharma hay pháp, là Phạn ngữ, có ý nghĩa bao quát. Trong trường hợp của Pháp Hội – Dharma Celebration, Pháp có nghĩa là Phật Pháp. Đặc trưng cốt yếu của Phật Pháp là để khuếch trương tối đa tính hữu dụng của trí thông minh con người để chuyển hóa những cảm xúc của chúng ta. Đấy là một việc kỳ đặc của Phật Pháp.

-Tất cả những tôn giáo quan trọng đều hướng đến chuyển hóa cảm xúc khi chúng là những nhân tố thiết yếu trong đời sống của chúng ta. Những trải nghiệm tiêu cực và đau khổ tác động những cảm xúc của chúng ta. Chuyển hóa có nghĩa là bảo tồn hay trong một số trường hợp, tăng cường sức mạnh những cảm xúc tích cực và giảm thiểu những thứ tiêu cực.

-Tôi nghĩ tất cả những tôn giáo quan trọng biểu lộ sự chú tâm đến việc chuyển hóa những cảm xúc. Nhưng phương pháp để thực hiện việc này không giống nhau. Trong nhiều truyền thống, sự chuyển hóa những cảm xúc xãy ra chính yếu qua niềm tin, là điều mạnh mẽ và trọng yếu. Một niềm tin mạnh mẽ trong Thượng Đế hay Allah – Hồi Giáo, trong Thần Krishna hay Shiva – Ấn Giáo, hay trong chúa Giê-su – Ki Tô Giáo có thể ảnh hưởng một cách chắc chắn trong những cảm xúc của con người. Chung quy, thông điệp của những bậc thầy lớn căn bản là giống nhau: từ bi, bác ái, tha thứ, bao dung, nguyên tắc và toại nguyện. Đây là những căn bản của các tôn giáo này.

-Trong truyền thống Phật Giáo, chúng ta không chỉ có tin tưởng hay kỳ vọng trong Đức Phật, mà chúng ta cũng khảo sát Đức Phật. Chúng ta làm điều này như thế nào? Đức Thế Tôn, Đức Phật lịch sử, đã không còn nữa. Phương cách duy nhất để tìm ra là thẩm tra những giáo huấn của Ngài và khảo sát những môn đồ nhiệt tình của Ngài. Nếu chúng ta thẩm nghiệm xuyên suốt thái độ và suy nghĩ của họ, chúng ta cuối cùng có thể biết loại ảnh hưởng nào mà những giáo huấn của Đức Phật có. Cũng thế, qua học hỏi giáo huấn và cố gắng để tích cực hiện thực trong trải nghiệm của chúng ta, chúng ta chung cuộc có thể phát triển một loại tin tưởng ổn cố nào đấy. Sự tin tưởng ấy không chỉ đến từ niềm tin mà qua sự khảo sát của chúng ta trong khi sử dụng sự thông tuệ của chúng ta.

-Tuệ trí không chỉ là tri thức; nó là kiến thức đầu tiên qua nghe (văn), thứ hai qua phân tích ý nghĩa qua lý trí (tư), và rồi nối kết nó vào kinh nghiệm của chúng ta (tu). Cuối cùng, đến niềm tin vững chắc của chúng ta. Lòng vị tha được tìm thấy trong mọi truyền thống, nhưng sự phối hợp của lòng vị tha với tuệ trí hay thông minh là đặc thù của Phật Pháp.

-Phán xét những gì tuyệt hảo được thực hiện tùy thuộc đến một số trường hợp đặc biệt. Tương tự thế, tôi nghĩ, công nhận tôn giáo nào là tốt nhất phải được căn cứ trên những lợi ích đạt được bởi mỗi cá nhân hành giả.

-Khi khía cạnh tôn giáo được quan tâm đúng mức, tôi tin rằng tất cả mọi truyền thống không nhiều thì ít là giống nhau. Tất cả đều lo lắng đến niềm hạnh phúc và điều tốt đẹp của con người. Tất cả mọi giáo huấn tín ngưỡng cố gắng để thúc đẩy hay tăng cường những giá trị tích cực của nhân loại. Khía cạnh ấy căn bản giống nhau trong mọi truyền thống.

-Chúng ta có thể phát triển lòng tin qua việc sử dụng trí thông minh của con người một cách tối đa như có thể và qua lòng từ bi của chúng ta. Lòng tin chắc đem đến nhiệt tình mà lòng nhiệt tình đem đến sự hoạt động cần mẫn. Chúng ta trở nên quen thuộc với những việc thực hành đạo đức, và điều này có một tác động lớn lao trong thế giới cảm xúc của chúng ta. Đây là cung cách của Đạo Phật.

-Khi người ta hỏi những câu hỏi về các phương pháp dễ dàng nhất hay cách tốt nhất, tôi phải khó khăn để trả lời cho họ. Tôi nghĩ người ta thường hỏi những câu về phương cách đơn giản nhất hay dễ dàng nhất vì lười biếng hay thiếu can đảm.

-Hãy nhìn vào Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, vị Thầy của chúng ta. Ngài thuật lại một cách rõ ràng rằng Ngài đã trải qua ba vô số kiếp thực hành để đạt đến thể trạng giác ngộ. Và những vị đạo sư Na Lan Đà — những bậc thành tựu như Tilopa và Naropa, và những đạo sư Tây Tạng như Milarepa và Tông Khách Ba — đã dành nhiều năm trong những nơi hẻo lánh chịu đựng vô số gian khổ nhằm đề chuyển hóa những cảm xúc của họ.

-Những cảm xúc của con người mà chúng ta trải nghiệm ngày nay và muốn để chuyển hóa cũng giống với những thứ đã hiện hữu khoảng hai hay ba nghìn năm về trước. Nếu chúng ta so sánh những cảm xúc con người đã tồn tại hàng trăm nghìn năm về trước hay một triệu năm vê trước với những con người hiện tại, chúng ta sẽ thấy một số khác biệt nào đấy trong họ do bởi sự gia tăng trí thông minh của con người. Trong tương lai, nếu chúng ta tồn tại vài trăm nghìn năm nữa, có lẻ cảm xúc của con người sẽ khác biệt.

-Nói một cách tổng quát, trong thế giới ngày nay, việc chấp nhận lẫn nhau đang cải thiện. Như một người tin tưởng trong những giá trị của tôn giáo và tâm linh, tôi nghĩ hòa hiệp và thống nhất là thiết yếu. Những giá trị này sẽ hiện hữu nếu chúng ta tôn trọng lẫn nhau. Sự tôn trọng chân thành sẽ hiện diện nếu chúng ta tiếp xúc với nhau và đi đến thấu hiểu những giá trị của nhau nhiều hơn. Chúng ta phải khuếch trương lòng ngưỡng mộ và hiểu rõ giá trị lẫn nhau.

-Tất cả mọi truyền thống tôn giáo, qua thời gian của nhiều thế kỷ, đã làm nên những sự cống hiến để phát triển những giá trị của con người và hòa bình của tâm thức. Tất cả mọi truyền thống tôn giáo đã ban cho niềm hy vọng và trao truyền cảm hứng đến hàng triệu người, và điều ấy quá đầy đủ để được lòng ngưỡng mộ của chúng ta.

-Chúng ta vẫn đang trải nghiệm những rắc rối trong những con người thuộc những tôn giáo khác nhau. Những sự kiện như vậy cho thấy rằng chúng ta cần một nổ lực bền bĩ để đối diện những thử thách mới. Chúng ta không thể quy lỗi một cá nhân cho những gì xảy ra trong thế giới chúng ta. Tôi nghĩ chúng ta nên quy trách nhiệm cho toàn thể xã hội. Xã hội sản sinh ra những lĩnh tụ và những nhà chính trị của chúng ta, và nếu chúng ta cố gắng để phát triển một xã hội từ bi hơn và thương mến hơn, chúng ta sẽ có những con người với bản chất tự nhiên hòa bình hơn. Những lĩnh tụ, những nhà chính trị, và những thương gia đến từ một xã hội như vậy sẽ cống hiến hy vọng cho một thế giới tốt đẹp hơn. Trách nhiệm lâu dài của chúng ta — trách nhiệm của mỗi người, cho dù họ là những người tín ngưỡng hay không tín ngưỡng – là đ ểtìm ra những phương cách để thúc đẩy một xã hội hòa bình và từ bi.

-Mỗi cá nhân phải cố gắng để bảo đảm hòa bình và từ bi yêu thương trong gia đình họ. Nối kết mười gia đình hòa bình từ bi với nhau, hay một trăm, và đấy là một cộng đồng. Trẻ con trong một xã hội như thế sẽ tiếp nhận ảnh hưởng trong gia đình của chúng và trong trường học của chúng từ những nhà giáo dục quan tâm. Chúng ta có thể có một hay hai sự thất bại, nhưng một cách tổng quát tôi nghĩ chúng ta có thể phát triển một xã hội có ý thức. Có ý thức ở đây có nghĩa là một ý thức cộng đồng, một cảm nhận trách nhiệm, và một ý nghĩa của chí nguyện cống hiến.

-Những gì quấy nhiễu tâm thức chúng ta, một cách chính yếu là những cảm xúc phiền não như thù hận và dính mắc. Và một trong những đối trị có thể làm nhẹ bớt và giảm thiểu những cảm xúc như thế là thực tập hành xả. Ở đây, chúng ta không nói về hành xả mà không có sự hiện diện của cảm giác hay với sự dửng dưng vô cảm. Chúng tôi muốn nói tính nhạy cảm đến những kinh nghiệm của sự tích cực và tiêu cực và có thể phân biệt giữa đúng và sai. Người ta có thể tiếp nhận một lối sống mà trong ấy người ta yêu mến những giá trị tích cực và cố gắng để xa lánh những thứ tiêu cực. Chúng tôi nói về hành xả trong ý thức của việc làm nhẹ bớt dính mắc và thù hận.

-Tôi cảm thấy rằng hành xả có thể được thực hành cả bởi những người nào đấy với một quan điểm tôn giáo và bởi ai đấy không tham gia bất cứ một truyền thống tôn giáo nào. Cũng giống với sự trau dồi những phẩm chất tích cực như từ ái và bi mẫn: chúng có thể căn cứ trên lý trí và sự thông hiểu từ một truyền thống tôn giáo đặc thù, hay có thể được phát triển mà không có bất cứ một căn bản tôn giáo nào.

-Một hành giả có thể phát triển từ ái và bi mẫn bằng việc suy nghĩ rằng qua những sự thực tập như thế, người ấy sẽ đạt đến giác ngộ bởi vì Đức Phật đã dạy con đường này. Nói cách khác, một người có thể phát triển những phẩm chất như thế nghĩ rằng sự phát triển từ ái và bi mẫn sẽ mang đến một tinh thần an lạc, thân thể khỏe mạnh, hay hòa hiệp và an bình trong gia đình người ấy. Loại lý trí này không căn cứ trên bất cứ truyền thống tôn giáo nào cả.

-Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh bởi vì chúng là thành kiến và cục bộ. Khi tâm thức chúng ta cục bộ, chúng ta sẽ không thể nhìn thấy thực tại và sẽ không khách quan. Với loại thấu hiểu này, chúng ta có thể tăng cường hành xả. Nhiều rắc rối mà chúng ta chạm trán và nhiều khó khăn chúng ta đối diện là bởi vì chúng ta không thể thấy thực tại một cách rõ ràng. Thái độ thành kiến tinh thần hay cục bộ là một trở lực và chướng ngại lớn để nhận thức thấu đáo thực tại.

-Một trong những nhân tố chính gây trở ngại cho chúng ta trong việc thấy tính khách quan của một hoàn cảnh là tính cục bộ của tâm thức và thể trạng thiên vị của nó. Chúng ta có thể thấy tại sao thực tập hành xả là rất quan trọng. Cũng thế, cảm nhận phổ thông là cần thiết để xử lý những hoàn cảnh khó khăn. Khi chúng ta đứng trước những hoàn cảnh phức tạp và cố gắng để giải quyết những vấn đề cố hữu trong chúng, điều quan trọng là có một thái độ thánh thiện hơn là một tâm tư hẹp hòi.

-Một cách đặc biệt trong thế giới ngày nay, thái độ thánh thiện thật quan trọng. Nếu chúng ta chỉ tập trung trên những sự quan tâm của gia đình chúng ta và quên đi những người khác, hay nếu chúng ta tập trung chỉ chú ý đến quốc gia chúng ta mà xem nhẹ những xứ sở còn lại, thì sẽ không thể đạt được nền hòa bình và hạnh phúc miên viễn. Nếu chúng ta để những cảm xúc phiền não khống chế tâm tư chúng ta, tâm thức chúng ta sẽ trở nên thành kiến và cục bộ; nó sẽ khập khiểng, thiên vị một bên. Rồi thì chúng ta sẽ không thể phát triển một sự tiếp cận thánh thiện.

-Đối với những ai chấp nhận những truyền thống tôn giáo, chúng ta thấy rằng họ sẽ rơi vào hai đặc trưng khác nhau. Một tập trung trên niềm tin trong một đấng tạo hóa; và thứ kia – kể cả Đạo Phật, Kỳ Na Giáo và một phần của truyền thống Số Luận – tập trung trên sự tự sáng tạo. Đối với một số người chấp nhận đấng tạo hóa, Thượng đế, có một cơ hội rộng rãi để phát triển ý thức hành xả. Khi người ta thấu hiểu mọi thứ được tạo dựng bởi Thượng đế, sau đó người ta thấy tất cả những tạo vật đến từ một cội nguồn căn bản. Để phát triển tính hành xả,quan điểm này là hữu dụng một cách đặc biệt khi người ta đứng trước một kẻ gọi là tạo nên rắc rối, một kẻ thù. Thông thường, chúng ta mệnh danh cho một người hay một nhóm người như một “kẻ thù” khi, dưới những hoàn cảnh đặc thù, họ tạo nên những rắc rối cho chúng ta. Nhưng nếu chúng ta thấy một người từ quan điểm rộng rãi hơn và nhận ra rằng người ấy là một bộ phận của nhân loại và một phần sự tạo dựng của Thượng đế, những cảm nhận tiêu cực của chúng ta sẽ giảm bớt lại. Quan điểm này có thể hữu ích trong việc phát triển hành xả.

– Đối với những ai tin tưởng trong Thượng Đế hay trong một đấng tạo hóa, tôi yêu cầu họ đặt nhấn mạnh hơn trong sự bình đẳng của tất cả chúng sinh và tập trung hơn trên trái đất này, hành tinh này. Nếu một đấng tạo hóa đã tạo ra tất cả những chúng sinh trên trái đất này, thì sự phân biệt không có chỗ trú.

– Trong Phật Pháp, đặc biệt trong truyền thống Đại thừa hay truyền thống Phạn ngữ, tất cả mọi chúng sinh đều có Phật tính. Do vậy, khi chúng ta đối diện với những rắc rối trong cư xử với người khác, chúng ta hãy nhớ rằng họ cũng là những chúng sinh như chúng ta và có Phật tính. Bản chất căn bản tự nhiên của mọi người là thanh tịnh. Sự tin tưởng này sẽ làm lắng dịu tâm tư chúng ta và sẽ làm giảm thiểu những cảm nhận tiêu cực.

– Một phương pháp đầy năng lực khác của việc đạt đến hành xả là tăng cường sự nhận thức rằng chúng ta muốn hạnh phúc -hạnh phúc tối đa, hạnh phúc tốt nhất. Chúng ta không muốn khổ đau và không thể chịu đựng ngay cả một rắc rối nhỏ bé nhất hay một nổi khổ sở nhỏ nhoi nhất. Giống như chúng ta có nguyện ước bẩm sinh về hạnh phúc và khổ đau, mọi người khác cũng thế. Chúng ta phải có thể thấu hiểu rằng nguyện vọng này hiện diện trong mỗi người.

-Trong sự thực hành Phật Giáo, khi chúng ta nói về phát triển hành xả, chúng ta liên hệ đến hai trình độ:

Trên trình độ thứ nhất, chúng ta thấu hiểu rằng chúng ta không nên tăng cường một sự vướng mắc đặc biệt đến một nhóm ngườii nào đấy và thù hận đối với một nhóm khác. Thay vì thế, chúng ta phát triển một thể trạng tinh thần bình đẳng, vô tư.

Trên trình độ thứ hai của hành xả, chúng ta mong ước làm lợi ích cho mọi người bất chấp những cảm giác xa lạ hay gần gũi. Để củng cố điều này, chúng ta quán chiếu trên sự kiện rằng mọi người, giống như chính chúng ta, muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau.

-Chúng ta có thể tăng cường sự thực tập hành xả này bằng việc quán chiếu trên những kết quả phá hoại tai hại của thái độ vị kỷ và những kết quả tích cực của lòng vịtha cùng yêu mến lợi ích của những chúng sinh khác.Thiền quán về tính không lợi ích cho việc phát triển hành xả. Để thấu hiểu pháp thiền quán này hổ trợ như thế nào, hãy quán chiếu trên việc những cảm xúc phiền não gây tổn hại cho chúng ta như thế nào.

– Khi chúng ta khuếch trương sân hận và thù oán, nó không chỉ tàn phá sự an bình tâm thức của người khác, mà nó cũng gây tổn hại không nhỏ cho chúng ta. Thù oán và sân hận thường ở dưới những hình thức khích động và biểu lộ trong những cung cách bạo động. Tuy nhiên, khi chúng ta quán chiếu trên những loại cảm xúc phiền não khác như vướng mắc, chấp thủ, chúng dường như tế nhị và xuất hiện đến chúng ta như những người bạn, nhưng chúng cũng rất tàn phá. Bằng việc thấy sự vô ngã của chính mình, chính mình vô vị kỷ, chúng ta có thể giảm thiểu khuynh hướng của những cảm xúc phiền não như thù hận và dính mắc. Khi chúng ta nói về vô ngã vị tha, không có nghĩa là không có sự tồn tại của tự ngã. Đúng hơn, nó có nghĩa là không có tự ngã với một bản chất chủ quan độc lập.

– Đức Phật dạy về những gì được biết là bốn tuyên bố của Đạo Phật hay bốn pháp ấn: tất cả những hiện tượng duyên sinh là vô thường (chư hành vô thường), tất cả những sự kiện nhiễm ô là khổ đau (nhất thiết hành khổ), tất cả những hiện tượng là vô ngã và trống rỗng (chư pháp vô ngã), và niết bàn hay giải thoát là hòa bình (niết bàn tịch tĩnh). Bằng việc thông hiểu những tuyên bố này của Phật Giáo, chúng ta có thể đạt đến những tầng bậc khác nhau của hành xả (sự buông bỏ những nhận thức chấp trước).

– Trong việc thấu hiểu lời dạy đầu tiên rằng tất cả những hiện tượng duyên sinh là vô thường, chúng ta nhận ra rằng mọi thứ được sinh ra, và chúng là nhất thời và vô thường. Bằng việc thấu hiểu rằng tất cả mọi hiện tượng là cùng một trình độ vì chúng là vô thường, chúng ta có thể buông bỏ những điều ràng buộc trong tâm thức, chúng ta có thể trau dồi hành xả. Cũng từ nhận thức ấy mà Hướng Dẫn Lối Sống của Bồ Tát của Tôn giả Tịch Thiên hỏi làm thế nào một vật vô thường có thể phát triển thù hậnđối với một thứ khác mà cũng là vô thường và nhất thời một cách như nhau. Tương tự thế, điều giáo huấn thứ hai, nói rằng tất cả mọi thứ nhiễm ô là khổ đau, có nghĩa rằng giống như tâm thức tôi ô trược và nhiễm bẩn và khổ đau là một phần bản chất của tôi, được áp dụng đến tất cả mọi người khác giống như vậy. Rồi thì tôi phải hỏi, làm sao tôi có thể ghét bỏ hay dính mắc những người khác khi tất cả chúng ta là như nhau. Thấu hiểu rằng mọi hiện tượng là vô ngã và trống rỗng đưa đến cùng kết luận. Khi chúng ta nói về niết bàn như hòa bình, hay giải thoát như thể trạng của hòa bình hoàn toàn, chúng ta nhận ra rằng mọi người đều sở hữu một Phật tính và có thể tăng cường hành xả một cách dễ dàng.

***

Trích từ bài Cultivating Equanimity của quyển Many Way to Nirvana

Ẩn Tâm Lộ ngày 24/01/2013

Nguồn: thuvienhoasen

CÙNG MỘT MỤC TIÊU
TỪ NHỮNG CON ĐƯỜNG KHÁC NHAU

Phúc Cường trích dịch

Ngài cho rằng truyền thống Pali mà phần lớn Phật giáo Thái Lan đang thực hành là nền tảng của tất cả các truyền thống Phật giáo. Đạo đức và giới luật trong Luật tạng, là nền tảng cho thực hành cả về thiền định (shamatha) và thiền quán (vipassana).

Một sự kiện quan trọng và tràn đầy truyền cảm đã diễn ra ngày 15 tháng 12 tại New Delhi, thủ đô của Ấn Độ, nơi khởi nguồn Phật giáo cách đây hơn 2600 năm, phái đoàn Phât giáo Thái lan gồm một số Hòa Thượng, gần 50 chư tăng và các học giả đã có buổi pháp đàm với Đức Đạt Lai Lạt Ma. Phía Thái Lan bao gồm Hòa thượng Phrarajnyanakavi, Hòa thượng Tiến sĩ Anil Sakya, Hòa thượng Paisal Visalo, Tiến sĩ Seksan Presertkul, Tiến sĩ Krissanapong Kirtikara và Tiến sĩ Veerathai Santiprabhob, trong khi đó thị giả cho Đức Đạt Lai Lạt Ma có Giáo sư Samdhong Rinpoche, Geshe Ngawang Samten, Geshe Lhakdor và Geshe Dorji Damdul. Gần 300 Phật tử Thái Lan đã nhiệt tâm tới lắng nghe buôi pháp đàm.

Sau những lời giới thiệu đầy lòng tôn kính của một nữ đại diện trung tâm Buddhadasa Indapanno Archive, trung tâm đã góp phần lớn vào tổ chức sự kiện này. Bà đã giới thiệu đức Dalai Lama là một pháp hữu của hai bậc đại trưởng lão Thái lan và trình bày tâm nguyện cho mối quan hệ giữa hai truyền thống Phật giáo tiếp tục phát triển.Bà cho biết mục đích của buổi pháp thoại là để củng cố tín tâm đối với giáo Pháp, củng cố mối quan hệ giữa hai truyền thống Phật giáo và thúc đẩy các công hạnh lợi tha.

Đức Đạt Lai Lạt Ma chào thính chúng khi bắt đầu các buổi

pháp đàm với các học giả Phật giáo và chư tăng Thái Lan

ở New Delhi, Ấn Độ, ngày 15 tháng 12 năm 2012.

Photo / Jeremy Russell / OHHDL

Một đoạn phim ngắn được trình chiếu về chuyến viếng thăm lần thứ hai của Đức Dalai Lama đến Thái Lan vào năm 1972, tiếp sau đó thông điệp của đức Tăng thống (Sangharaja) đã được tuyên đoc. Ngài đã huấn thị rằng buổi pháp đàm này rất phù hợp với truyền thống từ thời Đức Phật. Đức Phật đã luôn rộng mở một cách phi thường, ngài luôn sẵn lòng lắng nghe mọi người, và chỉ ban truyền giáo pháp khi được thỉnh cầu. Phật giáo thị hiện những hình thức khác nhau tại những nơi chốn khác nhau, nhưng sự khác nhau này không phải là nền tảng cho thái đô phân biêt, mà phải là sự khích lệ chúng ta cùng nhau đàm luận để loại bỏ những hiêu lầm.

Đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu buổi Pháp đàm: “Xin kính chào các Tỳ khưu, các Thiện hữu tri thức tôn quý. Tôi rất hoan hỷ khi thấy một số lượng lớn chư Tăng và Phật tử Thái Lan tới buổi pháp đàm ngày hôm nay. Kể từ khi lần đầu tiên tôi viếng thăm Thái Lan vào năm 1967, tôi đã rất ấn tượng trước sự phát triển của Phật giáo tại đất nước của quý vị. Tôi nhớ lại rằng trong các buổi pháp đàm của tôi với đại trưởng lão Sangharaja tại thời điểm đó, tôi hỏi quý ngài cho quan điểm về một thực tế rằng trong khi các tu sĩ và nữ tu Thiên chúa giáo đã dấn thân vào các công tác xã hội rộng khắp thì Phật tử chúng ta có xu hướng không như vậy. Ngài đã đáp lại rằng giới luật của Tăng sĩ chủ yếu là ở trong tự viện để tu học và thiền định.”

Giọng của Đức Đạt Lai Lạt Ma có hơi chút bị khàn bởi ngài vừa ban truyền một giáo pháp rất dài cho khoang 20 ngàn chư Tăng tại Nam Ấn. Thời lượng ngài thuyết pháp khoảng 60 tiếng trong 2 tuần trước.

Đức Đạt Lai Lạt Ma chia sẻ, giống như tất cả mọi hiện tượng hữu hình khác, Phật giáo cũng vô thường và sẽ không còn hiện hữu. Phật giáo đã tồn tại 2600 năm dưới sự bảo trì của các đệ tử Phật, chủ yếu là chư Tăng Ni. Ngày nay trong thế kỷ XXI, ngay cả ở các nước trước đây không có truyền thống Phật giáo, sự quan tâm cũng đang tăng mạnh cả những người dân thường và giới khoa hoc. Ngài cho rằng truyền thống Pali mà phần lớn Phật giáo Thái Lan đang thực hành là nền tảng của tất cả các truyền thống Phật giáo. Đạo đức và giới luật trong Luật tạng, là nền tảng cho thực hành ca về thiền đinh (shamatha) và thiền quán (vipassana). Ngài đã luận giải rằng thực hành thiền đinh, tâm của chúng ta sẽ an định hơn và thực hành thiền quán, chúng ta se đạt được trí tuê hiêu biết.

Đức Đạt Lai Lạt Ma và các học giả Phật giáo Thái Lan

tại buổi pháp đàm ở New Del

ngày 15 tháng 12 – 2012. Photo / Jeremy Russell / OHHDLhi, Ấn Độ,

“Tuy nhiên,” ngài chia sẻ, “chúng ta phải hướng tâm tới phần còn lại của nhân loại. Nếu có thể tạo ra một thế giới hòa bình hơn thì tất cả mọi người sẽ được ân hưởng sự lợi lạc. Và để đạt được điều này, tôi cho rằng chúng ta cần có một phương thức tiếp cận thuận theo thế tục hơn là thuần túy tôn giáo. Karuna hay tâm từ bi thực sự mang lại bình an và sức mạnh nội tâm. Những ai thực hành tâm từ bi trở nên an định hơn và không bị chi phối bởi những nỗi sợ hãi. “

Ngài dẫn chứng là các nhà khoa học cũng đã phát hiện rằng khi có tâm từ bi, cơ thể vật lý cũng như sức khỏe tinh thần của bạn sẽ được cải thiện.

Tới phần câu hỏi và trả lời, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đặt một số câu hỏi của riêng mình. Ngài muốn biết truyền thống truyền thọ giới Tỳ kheo Ni có đang được thực hành trong Phật giáo Thái Lan không, chúng ta cần phải khắc ghi rằng truyền thống đó tồn tại trong suốt cuộc đời của Đức Phật. Ngài cũng muốn biết về việc truyền giới và đắp y cho cây tại Thái lan, đã giành được sự tôn trọng rông khắp.

Khi được đặt câu hỏi về thực hành Phật Pháp đối với cư sĩ, Đức Đạt Lai Lạt Ma cho rằng rõ ràng đức Phật coi cư sĩ và Tăng sĩ có cơ hội bình đẳng và đều có khả năng đạt tới giải thoát và giác ngộ. Tuy nhiên, những tu sĩ, do không vướng bận trách nhiệm gia đình nên có thể giành nhiều thời gian hơn cho sự thực hành. Một câu hỏi được đưa lên về quan kiến trong Phật giáo Tạng truyền về sự bất khả phân của Luân hồi và Niết bàn. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã cười hoan hỷ và trả lời nếu thừa nhận giá trị bề ngoài của luận đề trên thì chúng ta hãy tự đặt câu hỏi lý do tại sao Đức Phật đã từ bỏ đời sống hoàng gia và thực hành khổ hạnh, thiền định trong sáu năm. Để minh định rõ hạnh phúc là gì, ngài đã phân biệt giữa sự thỏa mãn ngắn ngủi của giác quan như nghe nhạc hay thưởng thức món ăn ngon với niềm hỷ lạc vững bền hơn bắt nguồn từ hạnh phúc nôi tâm. Đây là một lĩnh vực cần phải luận giải kỹ hơn, ngài chia sẻ và nhận xét rằng tiếng Anh và các ngôn ngữ phương Tây khác thiếu ngôn từ để thảo luận về các vấn đề một cách đầy đu.

Sau giờ thọ trai buổi trưa là buổi pháp đàm về chủ đề “Những giải pháp cho các vấn đề thế giới”. Đức Đạt Lai Lạt Ma đề cập đến vấn đề bạo lực và chiến tranh đẫm máu in đậm trong thế kỷ XX, một số nhà sử học đã đưa ra con số 200 triệu người chết vì bạo lực. Ngài chia se:

“Chúng ta cần phải tìm một phương thức tiếp cận mới để tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn. Có nhiều vấn đề trọng đại cần giải quyết như: biến đổi khí hậu, gia tăng dân số, khoảng cách giàu nghèo, và tham nhũng. Nhiều người đã tỏ ra lo lắng với một dự đoán của người Maya cổ đại về ngày tận thế, nhưng nếu chúng ta không giải quyết được vấn nạn tham nhũng, nó giống như căn bệnh bệnh ung thư, thì chúng sẽ phải đối mặt với thảm họa. Tôn giáo quan trọng, nhưng đã không thể kiểm soát được vấn nạn này. Dân chủ, các quy định của pháp luật và tự do báo chí có thể chấm dứt được tham nhũng, nhưng cũng đã không thể kiểm soát được. Yếu tố then chốt là thiếu sự kỷ luật tự giác và các nguyên tắc đạo đức”.

Ngài, một lần nữa nhấn mạnh rằng, chúng ta cần phải tìm những phương thức để thúc đẩy nền đạo đức thế tục xuất phát từ ý thức chung và những kết quả của khoa học.

“Chúng ta cần khắc ghi rằng Đức Phật truyền pháp vì lợi lạc cho tất cả mọi người. Chúng ta cũng là một phần của nhân loại. Để giải quyết những vấn đề này, chúng ta có trách nhiệm phải hợp tác cùng nhau. Là một Phật tử Tây Tạng, tôi thực hành dành cho toàn thể nhân loại, quý vi cũng nên hướng tâm tới phạm vi rộng lớn hơn, không chỉ là các vấn đề của Thái Lan và Bangkok. “

Về vấn đề cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, Đức Đạt Lai Lạt Ma cho biết ngài rất ngạc nhiên khi nó xảy ra và ngài đã hỏi một số đạo hữu về nguyên nhân. Họ nói với rằng nó xảy ra vì tham lam và đầu cơ quá nhiều, ở một chừng mực nhất định do cả sự thiếu hiểu biết nữa. Ngài đã chỉ ra sự cần thiết phải phân biệt giữa lòng tham và mong nguyện, bởi vì có thể có mong nguyện tích cực như muốn chứng đạt giải thoát và Phật quả.

Về vấn đề tâm từ bi, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã phân biệt giữa tâm từ bi có điều kiện mà chúng ta thường chỉ hướng tới những người gần gũi với mình và tâm từ bi vô điều kiện thanh tịnh có khả năng thậm chí coi kẻ thù là những người bạn trân quý đang cần sự nâng đỡ. Nhắc lai vấn đề vào năm ngoái ngài đã dạy rằng Niết bàn không thể chứng đạt được chỉ thông qua trì tụng và cầu nguyên, một câu hỏi được đưa lên là làm thế nào để trưởng dưỡng chính kiến về luận điêm này. Đức Dalai latma đã chia sẻ:

“Trưởng dưỡng một quan kiến chân chính và thực tế cần có thời gian và nỗ lực không ngừng. Như tôi đã từng truyền trao một giáo pháp rất dài và thâm diệu cho 20 ngàn tăng ni ở Nam Ấn Độ. Giáo pháp đó có mang lại sự chuyển hóa ngay lập tức trong tâm của họ không? Tôi nghi ngờ điều đó. Họ cần phải thực hành giáo pháp đó trong một thời gian dài. Những điều chúng ta cần hướng tới ngay hiện thời là một cảm xúc cân bằng; loại bỏ những xúc tình tiêu cực là khó khăn nhưng có thể đạt được. Chúng ta cần phải nghiêm cẩn trong việc thực hành của mình. Xin tri ân các ban, xin hen găp lai vào ngày mai.”

***

Buổi pháp đàm ngày thứ hai, tai New Delhi, Ấn Độ, 16 tháng 12 năm 2012 – Một số lượng lớn thính chúng bao gồm chư Tăng Thái Lan, Phật tử đã thành kính cung nghinh đức Đạt Lai Lama quang lâm. Tiếp theo khóa trì tụng kinh Mangala bằng ngôn ngữ Pali, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trì tụng môt bài kê ngắn và bắt đầu chia se về chu đề “Từ Kết nối Trái tim tới Chung tay Hành động” theo sự thỉnh cầu từ trước.

“Cùng chung tay có thể mang lại sự hủy diệt, ví như các lực lượng quân sự đã cùng chung tay do bị thúc đẩy bởi lòng căm hận kẻ thù. Loại cùng chung tay đó trong chiến tranh từ lâu đã là một phần của lịch sử nhân loại. Thực sự cho tới cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, công dân của các nước có liên quan đã cùng tham gia mà không hề băn khoăn do dự. Tuy nhiên, kể từ khi chiến tranh Việt Nam, điều này đã thay đổi và nhiều công dân Mỹ đã từ chối gia nhập quân đội.

Đức Đạt Lai Lạt Ma chia sẻ tại cuộc Pháp đàm với

các học giả Phật giáo Thái Lan về “Tới cùng mục

tiêu từ những con đường khác nhau?” tại New Delhi, Ấn Độ,

ngày 16 tháng 12 năm 2012. Photo / Tenzin Choejor / OHHDL

“Vào thời điểm của cuộc xung đột Iraq nhiều người trên khắp thế giới đã phản đối. Bạo lực đã xảy ra rất nhiều từ cuối thế kỷ XX do những nhân lầm sai trong quá khứ. Vì vậy, ngày hôm nay, tai đây trong thế kỷ XXI này, chúng ta phải cùng chung tay xây dựng nền hòa bình, trên cơ sở không phải của niềm tin, mà trên nền tang cua lý trí.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích rằng khi chúng ta sử dụng đến bạo lực, nó tạo ra sợ hãi, hận thù và sân giận, và về lâu dài càng chất chồng thêm bạo lực. Ngài đưa ra ví dụ về chú chó sủa, nếu ta lấy gây doa nat, nó sẽ sủa nhiều hơn, nhưng nếu mỗi ngày, bạn mang thức ăn cho nó, nhe nhàng với nó, dần dần nó sẽ bớt hung tợn hơn và sẽ được thuần hóa. Đây là bản chất của chúng sinh.

Ngài chỉ ra rằng trong quá khứ, chúng ta đã có thể sống đầy đủ trong sự biệt lập, nhưng ngày nay điều này không còn phù hợp nữa. Thái Lan không thể đứng một mình mà phải phụ thuộc vào các nước khác để phát triển nền kinh tế và duy trì một mối bang giao hữu hảo với các nước. Đây là một trong những lý do bạo lực và việc sử dụng vũ lực đã lỗi thời. Thay vào đó, chúng ta cần chung tay với một ý thức trách nhiệm toàn cầu, thức tỉnh về sự thống nhất của nhân loại. Đức Đạt Lai Lạt Ma kết luận một cách hoan hỷ,

“Đó là những gì tôi chia sẻ với thời điểm này, nhưng nếu bạn chưa đồng ý, tôi hy vọng bạn sẽ nói lên ý kiến cua mình, bởi vì tôi đánh giá cao cơ hội được học hỏi từ các bạn.”

Một câu hỏi được đưa lên Đức Đạt Lai Lạt Ma về những bước cụ thể thúc đẩy đối thoại giữa hai truyền thống Phât giáo. Ngài đã gợi ý rằng các Tỳ-kheo, các học giả và giáo sư đại học sẽ được chào đón khi giành thời gian tại Viện Trung Tâm nghiên cứu Tây Tạng cao cấp còn được gọi là Đại học Trung tâm nghiên cứu Tây Tạng ở Sarnath(CIHTS), và tai Tibet House, New Delhi. Quý ngài có thể tu học và tham gia vào các cuộc đối thoại sâu hơn nữa tại cả hai địa điểm. Ngài nhắc lại rằng trong những năm 1960, ba vị tăng Tây Tạng đã đến Thái Lan để tu học và tham gia vào đời sống tự viên Thái Lan, một trong số họ thậm chí còn thụ nhận đại giới theo truyền thống Thái Lan. Sau đó, không có nhiều những đối thoại nữa. Ngài gợi ý sẽ là hữu ích nếu một nhóm nhỏ chư tăng và học giả Tây Tạng đến Thái Lan và ngược lại.

Liên quan tới vấn đề ngài thường gần gũi chia sẻ với cộng đồng Thiên chúa giáo nhiều hơn so với cộng đồng đạo Phật ở các nước khác, Đức Đạt Lai Lạt Ma cho rằng điều này là do có một số hiểu lầm. Để minh họa, ngài kể lại trong một dịp tại Ủy ban tôn giáo quốc tế tại Úc gần đây, khi hai Tỳ Kheo Miến Điện thỉnh cầu được gặp ngài. Ngài đã bày tỏ sự kính ngưỡng đối với Phật giáo Miến Điện và ngài rất hoan hỷ buổi gặp gỡ này. Hai vị tăng cho rằng mặc dù đều cùng thực hành theo giáo pháp của cùng một Đức Phật tuy nhiên giữa họ vẫn còn sự khác biệt. Ngài đã trả lời rằng không chỉ truyền thống Tạng truyền thực hành giáo pháp của cùng đức Phật mà còn thực hành cùng Luật tạng. Các Tỳ kheo Miến Điện dường như cũng rất hoan hỷ và ngac nhiên.

Các thành viên của khán giả nghe cuộc thảo luận về

“Tới cùng mục tiêu từ những con đường khác nhau?”

với Đức Đạt Lai Lạt Ma và Thái học giả Phật giáo ở

New Delhi, Ấn Độ, vào ngày 16 tháng 12 năm 2012.

Photo / Tenzin Choejor / OHHDL

“Về lâu dài, chúng ta cần phải giải quyết các rào cản về ngôn ngữ. Tôi đã đề nghi Trung tâm CIHTS ở Sarnath phải trở thành một trung tâm quốc tế, tại đó ngôn ngữ Pali và các ngôn ngữ khác cần phải được nghiên cứu. Chúng tôi nồng nhiệt đón chào nếu các học giả Thái Lan, cả những học giả nữ nữa, có thể tới trao đổi trước hết về ngôn ngữ. Trong các tự viện của chúng tôi tại Nam Ấn, có ít nhất 10 ngàn chư tăng ni đang tu học, đã có học viên đến từ Mông Cổ và các nước châu Á khác. Ngoài ra còn có các tăng sĩ phương Tây, trong đó có một tăng sĩ người Mỹ gần đây đã trở thành trụ trì của một tự viện.

“Với liên quan đến chư ni, kể từ cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70, tôi đã yêu cầu các ni viện thực hành truyền thống tranh biên và hiên nay, mặc dù chúng tôi vẫn chưa truyền đại giới Tỳ Kheo Ni, nhưng chúng tôi đã quyết định truyền trao học vị Geshema cho những chư ni đủ điều kiện. Đồng thời, bảo tồn Phật Pháp không phải là chỉ có đào tạo chư tăng ni, mà còn giáo dục cho Phật tử. Phật tử cũng rất cần phát triển một sự hiểu biết nhiều hơn về Phật pháp.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp tục dạy rằng ngài rất cẩn trọng trong các buổi đối thoại để không bị hiểu lầm là đang truyền bá đạo Phật giáo hay tìm cách cải đạo người khác. Ngài nhìn thấy những đàm luận cũng có thể là một tiềm năng của xung đột, đó là điều ngài đã minh định rất rõ với các nhà truyền giáo Thiên chúa trong buổi gặp gỡ tại Mông cổ. Ngài day, chúng ta phải luôn khắc ghi trong tâm rằng thực tế ngày nay nhiều người còn hoài nghi về tư tưởng Phật giáo, ví dụ như về đời sống quá khứ và tương lai. Ngài cho rằng Phật pháp phù hợp với thế giới ngày nay.

“Cũng giống như chúng ta dạy về vệ sinh thân thể để đảm bảo cơ thể khỏe mạnh, chúng ta cũng cần phải dạy một hình thức rèn luyện tinh thần, phân biệt được các cảm xúc tích cực và tiêu cực, và học hỏi để đối trị được chúng, đảm bảo một tâm thức lành mạnh”.

Một câu hỏi tiếp được đưa lên là làm thế nào để khuyến khích trẻ để trở thành tăng sĩ, Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời: “Giáo dục, giáo dục cộng đồng, giáo dục họ về Phật giáo.”

Các học giả tại các tự viện thị giả Đức Đạt Lai Lạt Ma đã được mời chia sẻ quan điểm trong cuộc hội thoại và là một trong những hỗ trợ của họ cho cuộc đối thoại này liên tục. Giáo sư Samdhong Rinpoche cũng chia sẻ về các dự án dịch kinh điển Pali sang ngôn ngữ Tạng đã được bắt đầu khởi động và hy vọng rằng sẽ được phát triển rộng lớn hơn.

Buổi hội đàm buổi sáng đã được kết thúc khi một phát ngôn viên Thái Lan nhắc lại mong nguyện được tham gia vào các hoạt động trên. Buổi hội đàm diễn ra trong năm kỷ niệm 2600 năm đức Phật đản sinh là một điềm cát tường, ông thành kính tri ân những huấn thị của đức Dalai Lama về giáo dục, tu hoc, và tất cả thính chúng đã cùng phát nguyện bằng trì tụng ba phần – “Sa-Dhu.”

Khóa pháp đàm buổi chiều cuối cùng bắt đầu với một vị tăng Thái Lan cho rằng sẽ thích hợp hơn khi nhắc tới Phật giáo Tạng và Thái là “cùng một mục đích, cùng một con đường” bởi Đại thừa tán thán lý tưởng Bồ Tát hơn lý tưởng La Hán. Vị Tăng đặt câu hỏi làm thế nào chúng ta hòa hợp được những khác biệt này. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã luận giải rằng trong Bát Nhã Tâm Kinh theo truyền thống Sankrit có nhắc tới ba thừa là Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ tát thừa, nhưng sẽ là một sự hiểu lầm nếu coi ba thừa là hoàn toàn khác nhau.

Ngài cho rằng khát ngưỡng đạt tới Niết bàn là một khát ngưỡng chứng đạt quả vị giải thoát, đó là nền tảng của Bồ đề tâm nguyện dẫn dắt chúng sinh tới tự do giải thoát. Điều quan trọng là định hướng bản chất tâm chúng ta. Nếu chúng ta bị chi phối bởi vô minh chúng ta sẽ không tìm được niềm hỷ lạc trong cõi luân hồi. Ngài chỉ ra rằng Bát Chánh Đạo là một phương thức khác thể hiện Tam học trong Giới, Ðịnh, Tuê. Lần chuyển pháp luân thứ nhất tuyên thuyết Tứ Diệu Đế, lần thứ hai là Diệt đế và lần chuyển Pháp luân thứ ba là Đao đế.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã chia sẻ về việc học hỏi từ một nhà vật lý lượng tử Chile mà ngài đã gặp gỡ tại một hội thảo ở Argentina. Nhà khoa học đã giải thích những cách giúp ông không bám chấp vào lĩnh vực khoa học của mình bởi cho rằng nếu không sẽ rơi vào định kiến ​​và không thể coi trọng các lĩnh vực khác với một thái độ cởi mở.

“Tôi là một hành giả thực hành Phật pháp, nhưng tôi nhận ra rằng mình không được phép bám chấp vào đao Phật, điều đó sẽ làm che mờ khả năng trong ta coi trọng giá trị của các con đường tâm linh khác.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma với các thành viên của cộng đồng

chư Tăng Thái Lan tham dự các cuộc pháp đàm về

chủ đề “Tới cùng mục tiêu từ những con đường khác nhau”

tại New Delhi, Ấn Độ, ngày 16 tháng 12 năm 2012.

Photo / Tenzin Choejor / OHHDL

Khi được thỉnh cầu ban những đạo từ kết thúc buổi pháp đàm, Đức Đạt Lai Lạt Ma chia sẻ, ngài rất ấn tượng với việc tiến hành các buổi đối thoại. Tất cả mọi người đều nhiệt tâm tham gia vào các thảo luận mở. Ngài cho rằng giáo pháp của Đức Phật rất thực tế và thiện xảo. Ngài nhớ lại một nhà thần kinh học người Đức, Wolf Singer đã giải thích rằng trong bộ não không có quyền lực trung tâm và nhận xét rằng điều này cũng phù hợp với quan điểm của Phật giáo về anatma, hay vô ngã hay không có linh hồn. Ngày nay trong thế kỷ XXI, chúng ta đang phải đối mặt với những thực tại khác nhau ví như những phát hiện của khoa thần kinh học, và trong khi đó, ở phạm vi giới luât – chúng ta phải nghiêm cẩn trì giữ, thì những ở những phương diện khác, Phật giáo cũng có khả năng đóng góp và thích ứng với những thực tại mới như vậy.

Phúc Cường trích dịch

Nguồn: Dalalama.com/news
Source: thuvienhoasen

Chuyển đến trang:  1  2  3  4  5  6