Pháp Âm 2

Recent Pages:  1  2  3    5  6  7  8  9  10  11 12

TÂM LÝ HỌC PHẬT GIÁO

Tác giả : Thích Tâm Thiện

Lời Giới Thiệu Cuốn Sách

Có thể nói rằng Duy thức học là một trong những môn học khó hiểu nhất trong các bộ môn Phật học. Vì đó chính là môn học đi sâu phần tâm thức hay còn gọi là tâm lý học. Trong ba Tạng thánh điển của Phật giáo, hầu hết đều đề cập đến các vấn đề tâm thức của con người. Tuy nhiên, trong luận Tạng, điểm đặc sắc của nó là trình bày các vấn đề thuộc tâm lý học một cách có hệ thống, và nổi bật nhất đó là Thắng pháp luận của Thượng tọa bộ, Câu xá luận của Nhất thiết hữu bộ và Duy thức của Đại thừa.Đây là ba hệ thống giải trình tâm lý học một cách độc lập như là một bộ môn tâm lý học đặc thù của Phật giáo.

Từ trước đến nay, các tác phẩm viết về Duy thức học khá nhiều, song khả năng truyền bá thường rất giới hạn; vì thứ nhất là cách trình bày nặng về phần “cổ điển”, và thứ hai là thuật ngữ chưa được diễn dịch theo cách hiểu hiện đại. Phần lớn các thuật ngữ đều được giữ nguyên văn chữ Hán. Ví dụ, chủ thể nhận thức được gọi là Kiến phần, và đối tượng được nhận thức được gọi là Tướng Phần. Điều này làm cho người học khó hiểu. Và, càng đi sâu vào “rừng thuật ngữ” thì người học càng bị rối rắm. Trong khi đó, những gì được trình bày trong Duy thức học lại là những gì rất gần gũi quen thuộc, hay nói đúng hơn đó là những hiện tượng, diễn biến xảy ra hàng ngày trong đời sống tâm lý của con người. Và thực tế cho thấy rằng, người học Duy thức thường cảm thấy xa lạ với những danh từ và tên gọi của Duy thức chứ không xa lạ với các vấn đề, hiện tượng, sự kiện v.v… được trình bày trong Duy thức.

Tác phẩm “Tâm lý học Phật giáo” của tác giả Thích Tâm Thiện, có thể nói, là một trong những tác phẩm đầu tiên trình bày về Duy thức học theo ngôn ngữ hiện đại, với cách trình bày rõ ràng, cụ thể giúp người học có thể nắm bắt một cách chính xác các vấn đề tâm lý theo quan điểm Phật học.

Điểm đặc sắc của tác phẩm trước nhất là sự trình bày về quá trình hình thành tâm lý học Phật giáo như một ngành học đặc thù trong hệ thống giáo lý của Đức Phật, nó xuyên suốt từ thời kỳ Phật giáo nguyên thủy cho đến Phật giáo phát triển. Thứ hai, là sự nối kết các giáo thuyết về tâm lý học thông qua ba luận thư tiêu biểu của ba thời kỳ Phật giáo, đó là : Thắng pháp luận, Câu xá luận và Duy thức luận. Thứ ba, là sự đối chiếu, so sánh các đặc trưng của hệ thống tâm lý giáo dục phương Tây và Phật giáo. Và cuối cùng, là sự trình bày về con đường giáo dục truyền thống của Phật giáo.

Thông qua các điểm cơ bản trên tác phẩm đã cung cấp cho độc giả một cái nhìn vừa đại cương và vừa nắm bắt cụ thể các vấn đề tâm lý theo quan điểm của Phật giáo, cũng như con đường tu tập thực tiễn để giải thoát mọi khổ não, bất an trong giòng tâm thức của con người theo giáo huấn của Đức Phật.

Thầy Thích Tâm Thiện là một tu sĩ trẻ đang hân hoan đi vào cửa Phật, và tác phẩm của thầy cũng để lại điều đó. Tôi hoan hỷ tán dương và xin trân trọng giới thiệu tác phẩm mới này cùng độc giả.

Mùa An cư PL 2542, 1998

Hòa thượng Tiến sĩ THÍCH TRÍ QUẢNG

Phần I : Giới Thiệu Tổng quát.

I.1.Chương 1 :

Dẫn nhập

I.1.1 Nhan đề và giới thiệu đề tài

Tâm lý học là khoa học nghiên cứu về tâm lý con người. Tâm lý học thường đi đôi với giáo dục học, gọi chung là tâm lý giáo dục. Về góc độ lịch sử, tâm lý học ra đời muộn hơn so với các ngành khoa học khác. Nhưng cũng như các ngành khoa học, tâm lý học bắt nguồn từ triết học và từ đó đã sớm đi vào giải quyết các vấn đề quan trọng, then chốt trong đời sống con người. Ngày nay tâm lý học trở thành một trong những ngành học quan trọng nhất vềcon người, nó liên quan mật thiết đến các lĩnh vực văn hóa và văn minh của nhân loại. Vì rằng, văn hóa và văn minh là những gì được làm ra bởi con người; nó là sản phẩm của con người, và do đó, không thể tách rời con người ra khỏi các lĩnh vực văn hóa và văn minh trong hệ thống tương quan, mang tính chất tùy thuộc lẫn nhau (Y tha khởi).

Tuy nhiên, trước viễn cảnh của thực tại, các nền văn minh nhân loại hiện nay đang rơi vào khủng hoảng – sự mất cân bằng một cách trầm trọng giữa đời sống vật chất và tinh thần. Các nước văn minh, tiên tiến thì nỗ lực tập trung vào các ngành khoa học công nghiệp và siêu công nghiệp, như công nghệ tin học, công nghệ không gian…; các nướcđang phát triển và kém phát triển thì nỗ lực đi vào công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Nói chung, cả hai đều đi vào mục tiêu phát triển kinh tế ở tầm vĩ mô. Tuy nhiên, điều nghịch lý, mâu thuẫn vẫn diễn ra trên toàn thế giới, đó là : đói nghèo, bệnh tật, chiến tranh, và nạn nhân mãn v.v…

Trong khi, chỉ số đánh giá mức phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc được xác định trên tỷ lệ tăng hoặc giảm của “GDP” (General Domestic Product – Tổng sản lượng hàng hóa nội địa) và “GNP” (Gross National Product – Tổng sản lượng quốc gia); thì ngược lại, chỉ số “stress” của con người ngày càng tăng. Đối với các nước công nghệ (1) siêu cường của thế giới thì căn bệnh trầm kha nhất không phải là kinh tế, mà chính là “stress” – một sự khủng hoảng tâm lý thời đại. Ngược lại, các nước kém phát triển và đang phát triển thì căn bệnh khủng hoảng đó bao gồm cả hai : khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng tâm lý. Với một đường hướng phát triển như thế đã đánh mất sự quân bình củađời sống con người. Nếu sự phát triển chỉ dựa vào lợi tức thu nhập (income) kinh tế và tư bản (tiền tệ), nghĩa là chỉ dựa vào khát vọng làm giàu và tôn vinh sự bảo thủ độc quyền (exclusive) – nói theo ngôn ngữ của Phật là tham ái (tanhà) và chấp thủ (upadàna) – thì ắt hẳn sẽ đưa đến khổ đau, bất hạnh và tuyệt vọng.

Vì thế, trước viễn cảnh của những khủng hoảng trầm trọng, nhất là khủng hoảng tâm lý của con người như là các hội chứng của stress thời đại, các giá trị trong sự sống của con người cần thiết được xét lại, và cần được soi sáng bởi những lời dạy của Đức Phật.

1-Vấn đề khủng hoảng tâm lý

Nhưvừa trình bày, trong xu thế công nghiệp hóa và siêu công nghiệp hóa của thế giới hiện nay, con người thường xuyên rơi vào các khủng hoảng theo hai chiều hướng, hoặc là bị loại trừ bởi các thiết bị hiện đại, hoặc là phải lao động quá mức có thể. Sự kiện đó xảy ra trên qui luật cạnh tranh mà các nhà kinh tế thời đại cho rằng đó là cạnh tranh để sinh tồn và cạnh tranh để phát triển (2). Nhưng thực chất là cạnh tranh để đi đến chiến thắng độc quyền, và có khi dẫn đến sự triệt hạ lẫn nhau giữa tưbản tư nhân hoặc tư bản độc quyền nhà nước (3); còn hậu quả thì đưa đến không những ở mức độ cộng đồng mà còn ở chính mỗi con người.

Trong khi đó, Đức Phật dạy : “Dầu tại nơi chiến trường, thắng hàng ngàn quân địch, tự thắng mình tốt hơn, đó là sựchiến thắng tối thượng”. (Php.103) Hoặc là “Dầu Thiên thần, Càn thát bà, Ma Vương hay Phạm Thiên, không ai chiến thắng nổi người đã tự chiến thắng và tự chế phục”. (Php. 105)

Sựchiến thắng như thế chính là nền tảng để từ đó tái lập sự quân bình cho đời sống tâm lý, và xa hơn là sựgiải quyết các khủng hoảng của con người chính nó, với tư cách là con người cá biệt (individual) và con người của cộng đồng, với tư cách là thành viên của xã hội (member of society).

2-Vấn đề triết lý nhân sinh

Nóiđến tâm lý con người cũng là nói đến tâm lý xã hội. Các ngành tâm lý học và xã hội học, đạo đức học, luận lý học… đều tập chú vào con người và các diễn biến tâm lý của con người. Và mục tiêu của các ngành học đó là giúp con người kiến tạo một đời sống hạnh phúc, đồng thời giúp phát triển một cách toàn diện các tánh hạnh (behaviour), các đức tính (virtue) của con người. Tuy nhiên, ngay từ đầu, triết học tâm lý đã vướng phải một sai lầm lớn, đó là xây dựng một hệ thống nhận thức luận (epistemology), giá trị luận (axiology) và bản thể luận (ontology) trên căn bản của một ngã thể (ego), một bản thể (essence). Và dođó, tất yếu phải đưa đến những quan niệm, phương pháp v.v… nhằm duy trì và bảo vệ cái ngã thể (4) bất thựcđó như cái bản năng (Id), cái siêu ngã (superego) trong tâm lý học mà Sigmund Freud đề xuất. Vì thế, khi con người đối diện với sự thật của định lý vô thường, sinh ra khổ đau và rơi vào khủng hoảng. Khủng hoảng tâm lý là căn bệnh miên trường đối với con người. Do đó, cần phải xét lại vấn đề tâm lý giáo dục của thời đại.

Đức Phật dạy rằng : “Các hành vô thường”, “các pháp là vô ngã” (5). Điều đó là một tia nắng rực rỡ, khả dĩ soi sáng và giải quyết các vấn đề hiện đại của con người.

3-Vấn đề cá nhân và xã hội

Cá nhân và xã hội là hai mặt của một hiện hữu. Cá nhân không thể thoát ly ngoài xã hội mà có, và ngược lại, xã hội không thể thành tựu nếu không có mỗi con người cá nhân. Sự tách biệt giữa cá nhân và xã hội là điều không thểvà lầm lẫn. Do đó, các hệ thống triết học nếu tự qui giảm mình về hoặc là duy tâm, hoặc là duy vật v.v… đều rơi vào phiến diện, và tha hóa. Điều này được Thích Chơn Thiện, trong luận án Tiến sĩ về “Lý thuyết nhân tính” (6),đánh giá và xếp loại như sau :

a) “Nhóm tư tưởng ngôi thứ ba : Các tư tưởng cho rằng có nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ gọi là nhóm tư tưởng ngôi thứba – người mà ta nói về. Do vì vai trò làm chủ cuộc sống của con người bị đánh mất trong nhóm tư tưởng này, nên tư tưởng của nhóm này bị tha hóa (alienation)”.

b) “Nhóm tư tưởng ngôi thứ hai : Các tư tưởng cho rằng sựthật chỉ hiện hữu trong thiên nhiên hay hiện tượng giới gọi là nhóm tư tưởng ngôi thứ hai – người mà ta nói với. Con người cũng bị đánh mất trong nhóm tư tưởng này, nên nhóm này được gọi là tha hóa”.

c) “Nhóm tư tưởng ngôi thứ nhất : Các tư tưởng cho rằng con người làm chủ cuộc đời mình, hay cuộc sống là vì hạnh phúc của con người … – người mà ta đang nói ….”

Và tác giả cho rằng, Phật giáo, hiện sinh thuyết, và hiện tượng luận … thuộc về nhóm tư tưởng ngôi thứ nhất.

Tuy nhiên, sự sắp xếp trên của tác giả chỉ nhằm phân loại các nhóm tư tưởng một cách bao quát (universal). Sự thật thì giữa Phật giáo và hiện sinh thuyết chẳng hạn, cách giải quyết vấn đề hoàn toàn khác nhau (7) ngay từ nền tảng của mỗi học thuyết, như một đằng nói Vô ngã (Non-essence), một đằng khác nói Hữu ngã (Essence).

Ở đây, qua giáo lý Duyên sinh (Paticcasamupàda), Đức Phật đã soi sáng sự thật của con người và vũ trụ vạn hữu này. Sự thật đó chính là Duyên sinh tính, Vô ngã tính. (Vấn đềsẽ được bàn rõ ở các chương sau).

4-Vấn đề đạo đức và luân lý

Đạođức và luân lý đều là các nội dung được bàn đến trong tâm lý học, mặc dầu giữa đạo đức học và tâm lý học thì khác nhau trên cơ sở đối tượng và quan điểm nghiên cứu (8); nhưng cả hai đều thuộc ngành khoa học nhân văn, nên đều hướng đến đối tượng là đời sống tinh thần hay ý thức của con người.

Tuy nhiên, do tính chất công ước (conventional) xã hội của đạođức, luân lý, nghĩa là nó luôn luôn được giới hạn bởi tính chất qui ước chung của toàn xã hội, do đó, nó chỉphản ánh trên bề mặt của các hiện tượng (thiện, ác) xã hội, mà chưa thực sự đi vào bản chất của mỗi con người. Vì thế, một kẻ tàn ác, xấu xa, y vẫn có thể đội lốt lương thiện – công ước để trung hoành ngoài xã hội.Đây là nguyên nhân đưa đến nạn tham nhũng, giết người giấu tay v.v… hay còn gọi là khủng hoảng đạo đức.

Đức Phật, qua giáo thuyết nhân quả, nghiệp báo (karma), đã xácđịnh rõ : “Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp, nghiệp là thai tạng, là quyến thuộc …”(9)

Cái thai tạng (womb) hay tâm thức đó của mỗi con người là nền tảng của đạo đức và luân lý Phật giáo. Và tại đó, là cơ sở duy nhất có thể giải quyết các khủng hoảng và sự đảo lộn trật tự của đạo đức, luân lý thời đại. (Vấn đề sẽ được bàn cụ thể ở các chương sau)…

Source: thuvienhoasen.

LUÂN HỒI

HT. Thích Thanh Từ

Có một số người bảo “nhà Phật nói luân hồi để ru ngủ con người trong giấc mơ mê tín “. Chúng ta khảo sát kỹ coi câu ấy có đúng thế không? Đó là nhiệm vụ của người truyền bá Phật giáo, cần phải làm sáng tỏ vấn đề này. Bởi thuyết luân hồi là một thuyết quan trọng trong nhà Phật.
Nếu là mê tín thì trong đạo Phật mê tín hay sao? Hẳn không phải thế, đạo Phật là đạo giác ngộ, truyền bá những lẽ thật của mình giác ngộ cho chúng sinh biết là nhiệm vụ của đức Phật, cần phải nghiên cứu tường tận giải bày rõ ràng để mọi người được hiểu khỏi sinh nghi ngờ là một diều cần yếu không thể thiếu được. Lý luân hồi là một cơ cấu hệ trọng trong Phật pháp, bao gồm cả nhân quả, nghiệp báo là căn bản đạo đức của người tu Phật. Không thông lý luân hồi, người Phật tử khó bề tiến tu được. Do đó chúng ta cần phải hiểu cho thấu đáo.
.
1** ĐỊNH NGHĨA
Luân hồi là xoay vần, cứ mãi đảo lên lộn xuống xoay vần trong khuôn khổ cố định. Mọi sự đổi thay biến chuyển không đứng yên một vị trí nào. Hằng xê dịch biến thiên từ trạng thái này sang trạng thái khác, từ hình tướng này sang hình tướng khác. Tất cả sự biến thiên tùy duyên thăng trầm không nhất định là luân hồi.
.
2** LUÂN HỒI LÀ SỰ THẬT
Qua định nghĩa trên, chúng ta thấy luân hồi là một triết lý thực tiễn không còn gì phải nghi ngờ. Bởi vì con người và vũ trụ hiện tại đều nằm chung trong một định luật “biến thiên”.
a/ Quả đất luân hồi:
Nhờ khoa học phát minh cho biết quả địa cầu chúng ta đang ở xoay tròn quanh một cái trục trong không gian. Do sự xoay tròn này, phía nào của mặt trời là sáng, phía bị khuất là tối. Từ đó, con người mới đặt ra thời gian. Sự xoay tròn này không phải luân hồi là gì ? Quả đất xoay khiến có ngày đêm và hai mươi bốn tiếng đồng hồ nhịp nhàng theo chiều quay của trái đất, lại có chia Xuân, Hạ, Thu, Đông, do sự xê dịch gần và xa mật trời. Từ sự xoay tròn của quả đất, nảy sinh thời gian, thời gian và trái đất đều là luân hồi. Quả đất là chỗ tựa nương để sống còn của vạn vật và con nguời; bản thân nó đã luân hồi thì những vật tựa nương vào nó thì làm sao thoát khỏi luân hồi. Thế thì cả vũ trụ lẫn vạn vật cùng toàn thể chúng sinh đều là luân hồi. Đó là một sự thật căn cứ trên khoa học, chứ không phải là chuyện huyền thoại mơ hồ. Thể theo sự nhận xét tổng quát này, chúng ta cần đi chi tiết hơn cho dễ hiểu.
b/ Vạn vật luân hồi:
Muôn vật trên quả địa cầu đều cùng chung luân hồ. Về sinh vật từ cái cây cọng cỏ bởi do hạt nảy mầm tăng trưởng thành cây, sinh hạt, đảo đi lộn lại mãi không cùng. Các loài động vật thì từ trứng nở thành con, con lại sinh trứng; hoặc từ bào thai thành hình, khi trưởng thành lại có bào thai, lẩn quẩn loanh quanh không cùng. Đó là chúng ta nói sự luân hồi trong cuộc tiếp nối. Đến ngay bản thân sự vật cũng bị luân hồi, chúng sinh trưởng thành là do đất, nước, gió, lửa, khi tan hoại cũng trở về đất, nước, gió, lửa, tụ lại tán ra theo duyên biến chuyển chẳng cùng. Bản thân đất, nước, gió, lửa cũng bị luân hồi. Như sáng sớm chúng ta lấy thau múc một phần ba thau nước đem để ngoài trời nắng, đến chiều thau nước cạn khô. Thử hỏi nước đi đâu? Nước mất hết rồi sao? Nước không đi đâu, nước cũng chẳng mất, chẳng qua nước là thể lỏng do ánh nắng nóng bốc lên thành thể hơi, hơi theo gió bàng bạc trong hư không nào có định xứ. Thể hơi gặp khí lạnh đọng lại rơi xuống thành nước, nước lại bốc thành hơi, cứ thế mãi luân hồi không cùng. Gió, lửa, đất cũng thế, tùy duyên từ hình thái này đổi sang hình thái khác, đổi đổi thay thay không có ngày cùng. Tìm chỗ bắt đầu và chung cục của chúng không thể được. Hình tướng trạng thái luôn luôn đổi thay, sự thật vẫn không bao giờ mất. Từ một hình tướng thô đổi thành một trạng thái tế, với cái nhìn thô thiển người ta bảo là mất, thật sự nào có mất chỉ là biến thái.
c/ Con người luân hồi:
Nói đến con người tạm chia thành hai phần, vật chất và tinh thần, như bóng đèn và điện. Ngọn đèn phát huy được ánh sáng phải có đủ hai điều kiện hỗ tương nhau. Có bóng đèn mà không có điện trở thành vô ích, có điện mà không có đèn cũng vô nghĩa. Sự hỗ tương giữa điện và bóng đèn không thể tách rời, không thể đặt giá trị thiên trọng, không thể xem như chủ khách. Cần phải thấy sự tương quan bất khả phân ly. Tinh thần và vật chất của con người cũng thế, mọi sự phân chia khinh trọng…đều sai ý nghĩa chân thật của nó. Vì muốn thấy sự luân hồi tường tận, chúng ta tạm nhìn con người ở hai mặt để dễ bề nhân xét:
-Vật chất luân hồi: phần vật chất nơi con người, nhà Phật chia tổng quát làm 4 phần: đất, nước, gió, lửa. Những loại cứng trong thân người như : da, thịt, gân, xương, tóc, lông, răng, móng…thuộc về đất. Các loại ướt như : máu mủ, mồ hôi, đàm dãi, nước mắt, nước mũi…thuộc về nước. Hít không khí vào cho phổi hô hấp, quả tim đập, các mạch máu chảy…. mọi thứ động thuộc về gió. Nhiệt độ trong người làm cho thức ăn tiêu hóa, máu không đông đặc, ấm áp toàn thân…. thuộc về lửa. Bốn thứ này thiếu một là con người chết ngay. ở đây chúng ta phân tích sự luân hồi từng thứ:
+ Đất luân hồi: Thâu nhận tế bào mới, đào thải tế bào cũ. Thay mới đổi cũ không thể nào dừng, ấy là luân hồi. Cho đến thân này sống nhờ những thứ có chất bột (đất), khi chết nó tan hoại trở thành đất, khi sống mượn những chất đất bồi dưỡng, lúc chết trả lại cho đất. Hợp lại tan ra, tan ra hợp lại, không phải luân hồi là gì?
+ Nước luân hồi: Máu từ quả tim chạy khắp các mạch, , rồi trở về quả tim, chạy ra trở về, trở về chạy ra, sự tuần hoàn như vậy gọi là luân hồi. Cho đến khi sống mượn nước đem bồi bổ chất ướt trong thân, lúc chết chảy ra trở về lòng đất. Sự mượn trả mà không bao giờ mất ấy gọi là luân hồi.
+ Gió luân hồi: Hít không khí vô, thở không khí ra, hít vô thở ra cả đời như vậy là luân hồi. Nhờ cái động của thở hít không khí mà các cơ quan trong toàn thân hoạt động, các cơ quan hoạt động là thân sống. Đến khi thở không khí ra mà không hít lại, liền ngừng hoạt động, tức là thân chết. Thế thì là sự sống của thân này đích thực do luân hồi của gió, gió ngưng luân hồi thì thân phải hoại diệt.
+ Lửa luân hồi: Do nhũng thức ăn có chất nóng nuôi dưỡng phần lửa trong thân. Lửa dùng sưởi ấm toàn thân, thiêu đốt vật thực, lại do vật thực bồi bổ chất lửa. Cứ tiêu dùng bồi bổ, bồi bổ tiêu dùng, đảo đi lộn lại là luân hồi. Khi tiêu dùng mà không bồi bổ kịp, lửa từ từ tắt, con người chết. Lửa ấy trở về với thiên nhiên, tùy duyên chuyển biến trong không gian, mà chưa bao giờ mất là luân hồi.
Tóm lại, tứ đại tụ họp quân bình nhau là con người sống khoẻ mạnh, nếu thiếu quân bình là ốm đau, phân tán thì tử vong. Trong khi tứ đại tụ họp trong thân này luôn luôn biến chuyển tuần hoàn, không được ngăn trệ ứ động. Vừa bị ngăn trệ ứ động là thân này nguy ngập. Sự biến chuyển tuần hoàn của tứ đại trong thân con người gọi chung là vật chất luân hồi. Sở dĩ nói luân hồi vì biến chuyển mà không phải mất hẳn.
-Tinh thần luân hồi:( tâm sở luân hồi) – Phần tinh thần của chúng ta luôn luôn thay đổi bất thường, không bao giờ đứng yên ở một vị trí. Những thứ buồn vui, yêu ghét, thương giận, lành dữ, phải quấy… thường thay mặt đổi mày như trên sân khấu. Có khi chúng ta hiền lành như ông Phật, có lúc giận dữ như con cọp đói. Nhiều lúc vui vẻ yêu thương, lắm khi bực bội thù địch. Những tâm trạng đổi thay không lùi được, chính tự thân chúng ta cũng không thể ước đoán nổi tâm trạng củ minh sẽ xảy ra những cái gì. Sự buồn vui thương ghét đổi thay thăng giáng nơi nội tâm chúng ta là luân hồi.
Nói chung con người chúng ta, hai phần vật chất lẫn tinh thần đều là tướng trạng của luân hồi. Sự luân hồi của chúng ta là sự hoạt động sống còn của ta. Biết rõ vật chất tinh thần chỉ đổi thay hình tướng trạng thái, chứ không một vật nào mất. Nếu thấy mất chẳng qua do cái nhìn cạn cợt nông nổi mà kết luận như thế. Thực thể của nó là “biến thiên mà bất diệt”. Thấy đến chỗ tận cùng ấy, mới khỏi nghi ngờ về lý luân hồi. Sự luân hồi ngay trong hiện tại này là hiện tại luân hồi. Đến sự tụ lại tan ra, tan ra tụ lại của thân con người là luân hồi đời này sang đời khác.
Mọi sự tụ tán đều tùy duyên khiến hình tướng, trạng thái đổi khác. Ví dụ nước do duyên nóng bốc thành hơi, gặp duyên lạnh cô đọng thành khối. Sự biến thái này đều do duyên quyết định. Duyên quyết định cho sự luân hồi của con người là gì ? Là nghiệp. Nghiệp là động cơ chính yếu trong cuộc luân hồi của con người.
.
3** ĐỘNG CƠ LUÂN HỒI:
Nghiệp là hành động từ thân tâm con người tạo thành. Khi thành nghiệp rồi nó thúc đẩy dẫn dắt con người đến chỗ thành quả của nó. Chính nó là động cơ quan yếu đẩy mãi trong vòng luân hồi không dừng của tất cả chúng sinh. Cơ quan tạo nghiệp có ba thứ: thân, miệng và ý. Nói đến nghiệp là nói đến sự toàn quyền quyết định nơi mọi người chúng ta. Không ai tạo nghiệp thế cho chúng ta, cũng không ai có thể cho chúng ta, cũng không ai có thể thay thế nghiệp của chúng ta. Chính chúng ta là chủ nhân tạo nghiệp, cũng là chủ nhân thọ báo. Trọng trách của mọi sự khổ vui hiện tại và mai sau đều do chúng ta quyết định. Chủ trương nghiệp là chủ trương giành lại toàn quyền cho con người. Chúng ta là ông chủ nhân của chúng ta hiện tại và vị lai.
.
Không phải một đấng thượng đế hay một tha nhân nào khác tạo thành một cuộc sống an vui hay đau khổ cho chúng ta.
.
Mà chính do thân miệng ý của chúng ta trong quá khứ cũng như trong hiện tại gây nên. Chúng ta thừa nhận nghiệp do mình tạo ra, đã tước hết mọi quyền năng của các đấng thiêng liêng, của định mạng, của tướng số và của rủi may. Nghiệp là hành động, là thói quen nên có thể chuyển đổi, chỉ cần nỗ lực và bền chí. Nghiệp có nghiệp thiện và nghiệp ác.
a/ Nghiệp ác: Nghiệp ác là hành động làm cho người khổ và mình khổ, hoặc ở hiện tại hay ở vị lai. Hành động này do ba cơ quan tạo nên: thân, miệng, ý.
Thân làm ác: Để cho thân buông lung thích hành động giết hại sinh mạng con người, hoặc thích trộm cắp tài sản người, hoặc đắm say dâm dật trái phép, là nghiệp ác của thân. Vì hành động này làm cho người khổ mình khổ, nếu hiện tại chưa đến thì vị lai cũng chịu.
Miệng làm ác: Miệng ưa nói lời dối trá, lời ác độc, lời ly gián, lời thêu diệt, là nghiệp ác của miệng. Vì những lời nói này khiến người nghi ngờ bực tức đau khổ mang tai họa, nên hiện tại hoặc vị lai mình cũng phải nhận lấy hậu quả đau khổ ấy.
Ý làm ác: Si mê, tham lam, nóng giận là nghiệp ác của ý. Chính nó là động cơ thúc đẩy thân làm ác, miệng nói ác. Bản thân nó thì chưa làm hại được ai, song do nó khiến thân sát phạt người, miệng chửi bới nguyền rủa người. Thân, miệng mà không cộng với tham sân si thì tự nó không có lỗi lầm gì. Thế nên tuy nói ba cơ quan tạo nghiệp, mà ý là cơ quan hệ trọng hơn cả, nó là chủ động của hai cơ quan kia.
b/ Nghiệp thiện: Những hành động đem lại sự an ổn vui vẻ chẳng những có trong hiện tại mà còn đến vị lai. Cũng do ba cơ quan tạo thành nghiệp thiện: thân, miệng, ý.
– Thân làm lành: Thân không giết hại người, không trộm cướp tài sản người, không dâm dật phi pháp là nghiệp thiện của thân. Tại sao không làm ba việc ấy là thiện? Bởi vì con người quý nhất là sinh mạng, chúng ta không hại sinh mạng họ thì họ đến với chúng ta một cách an ổn không sợ sệt. Thứ yếu là tài sản, con người tự thấy tài sản là huyết mạch của họ, chúng ta nhất quyết không trộm cướp thì họ đến với chúng ta cũng như chúng ta đến với họ, đều được an vui không hồi hộp lo âu về mất của. Hạnh phúc của gia đình là vợ chồng hoà thuận tin yêu trinh bạch với nhau, nếu vợ chồng có tình ý riêng tư với ai là gia đình mất hạnh phúc. Chúng ta gìn giữ không theo sự dâm dật phi pháp, đến với gia đình ai thì họ đều an ổn vui vẻ không nghi ngờ sợ sệt chi cả. Giữ gìn ba điều này, chúng ta đã ban sự an ổn vui tươi cho bao nhiêu người rồi, cũng chính là đem lại sự an ổn vui tươi cho gia đình chúng ta.
– Miệng làm lành: Miệng kh6ng nói dối trá, không nói ác độc, không nói ly gián, không nói thêu dệt là miệng làm nghiệp lành. Vì sao? Bởi vì nói dối trá khiến người nghi ngờ mất niềm tin, đã không tin nhau làm gì có thương mến. Thế nên nói dối là căn bản khiến con người mất hết tình thương. Nói ác độc khiến người nghe sinh phẫn nộ bực dọc đau khổ. Nói ly gián làm cho thân thuộc họ phải chia lìa, tạo thành cái khổ ải biệt ly. Nói thêu dệt là không đúng chân lý, khiến người không tìm ra được lẽ thật. Chúng ta quyết định giữ gìn miệng không nói bốn điều trên là tạo dược tình thân giữa mình và người, đem lại cho mọi người sự an ổn, bảo vệ được tình thân của người, giúp cho người dễ nhận ra lẽ thật. Thế là chúng ta đã tạo điều kiện tốt đẹp cho xã hội biết mấy.
– Ý làm lành: Ý không có tham, sân, si là ý làm nghiệp lành. Chúng ta thường thấy mọi sự bất bình đổ vỡ đều phát nguồn từ tham sân si. Nếu chúng ta không để tham, sân, si dẫn dắt hoành hành thì cả cuộc đời chúng ta được an ổn, cũng là nguồn an ổn cho mọi người. Ba thứ này gọi là tam độc, vì nó gây đau khổ cho mình và người không thể lường trước được. Người nào kềm cương giữ thắng được nó, bảo đảm được một đời sống an lành, cũng bảo vệ được an ninh trật tự cho mọi người. ngược lại, kẻ nào buông cương thả thắng, nó sẽ lôi đời họ vào hố sâu nguy hiểm, cũng gây hại họa cho khách bàng quan không ít. Thế nên, không cho tham sân si nổi dậy là gìn giữ an ổn vẹn toàn cho mình và mọi người.
c/ Khả năng của nghiệp: Nghiệp là cái không có hình tướng mà có khả năng đáng kể. Ví như gió, tuy không thấy hình tướng mà nó thổi đất nước đều lung lay. Nghiệp cũng thế, bình thường chúng ta không thấy nó, mà nó lôi chúng ta đi khắp nẻo luân hồi. Sỡ dĩ nó có khả năng mạnh mẽ như vậy là do tập quán lâu ngày. Như người tập hút thuốc, buổi đầu khói thuốc chỉ cảm thấy khó chịu, nhưng tập lâu ngày thành ghiền, khi ghiền rồi với giá nào cũng phải tìm cho có nó. Thử hỏi cái ghiền ấy hình tướng ra sao, mà điều khiển con người một cách mãnh liệt như thế? Quả thật không ai biết tướng mạo của nó, nhưng khi nó đòi hỏi, người ta phải chạy ngược chạy xuôi tìm ra thuốc hút. Bệnh ghiền rượu khả năng còn mạnh hơn, từ những hớp rượu cay xé mồm, tập mãi thành quen, bắt đầu ghiền rượu, khi ghiền không có rượu khiến người ta phải ụa phải mửa, oằn oại nhọc nhằn, ngáp trời ngó đất, quả thật chi phối hết khả năng con người. chúng ta tự đặt câu hỏi, ai đem bệnh ghiền đó đến cho chúng ta? Chính chúng ta tự tập, tập lâu thành ghiền , cái ghiền ấy do mình tạo rồi mình chịu.Cái ghiền ấy có ma lực gì mà đày đoạ hành hạ con người đến thế? Hắn không có ma lực gì, chẳng qua tập lâu thành thói quen, thói quen càng lâu sức càng mạnh. Đã tự chúng ta tập thành bệnh, khi muốn hết bệnh cũng tự chúng ta gan dạ tự bỏ nó, không ai có thể bỏ thế cho chúng ta. Khả năng của bệnh ghiền giống như của bệnh nghiệp chi phối chúng ta trong lục đạo luân hồi vậy. Tự chúng ta tạo nghiệp lành hoặc nghiệp dữ, tạo càng lâu thì sức mạnh càng lắm. Đến cuối cùng chúng chi phối dẫn dắt chúng ta đi váo con dường lành hay dữ tùy chỗ gây tạo của mình.
.
Không phải hoá công đày đoạ, không phải thượng đế bày ra, chính chúng ta tự tạo rồi tự thọ.
.
Khi đã thành nghiệp, chúng ta khó cưỡng được nó. Thế nên, biết chọn nghiệp lành để tạo là đã tự gây một sức mạnh đưa mình đến cõi lành. Cắm đầu gây nghiệp ác là là tạo áp lực lôi mình vào cõi dữ,. Chính đây là quyền lực chọn của con người, quyền định đoạt số phận ở mai hậu. Nếu cứ sống say chết ngu, những kẻ này về sau than trời trách đất nào có ích gì. Chúng ta có đủ thẩm quyền để quyết định đời mình hiện tại và vị lai, tại sao chúng ta lại bỏ mất hết các giá trị cao cả ấy. Những kết quả tốt xấu dở hay ở hiện tại và mai kia đều nằm sẵn trong tay chúng ta, chúng ta có quyền phán quyết một bản án tốt xấu trong đời sống mai sau của mình. Đừng cầu khẩn van xin bất cứ một năng lực nào ngoài chúng ta. Nói đến khả năng nghiệp là khả năng của chúng ta, nghiệp và chúng ta không phải là hai. Nếu chúng ta khôn ngoan khéo léo lo tạo nghiệp lành, chúng ta dại khờ ngu muội gây tạo nghiệp ác. Khổ vui sẽ tùy nghiệp mà đến với chúng ta một cách chân thành.
.
4** TẤT YẾU CỦA LUÂN HỒI
Tạo nghiệp là nhân, thọ báo là quả. Tất yếu của sự luân hồi là nhân quả. Lăn lộn trong ba cõi sáu đường đều tùy thuộc nhân quả. Mình đã gây nhân nhất định mình phải chịu quả, quả khổ quả vui là do gây nhân khổ vui. Nhân quả là lẽ công bằng chân thật, bởi mỗi cá nhân gây tạo khác nhau, nên sự thọ nhận cũng sai biệt. Sự công bằng từ nhân đến quả, không phải sự công bằng do ai khác áp đặt cho mình. Nếu do kẻ khác áp đặt cho mình là đã bất công rồi. Ngày nay chúng ta tạo nhân ngày mai chúng ta thọ quả, thực là rõ ràng rành mạch biết bao. Song nói nhân quả là căn cứ trên thời gian suốt cả quá khứ hiện tại vị lai, trong quá khứ có cái gần có cái xa, vị lai cũng thế. Khiến có những kết quả xảy đến mà đương sự không bao giờ nhớ. Lại có những sự kiện gây nhân mà không thấy kết quả. Do đó nhân quả trở thành rắc rối khó khăn, người ta khó tin, khó nhận. Nhưng sự thật lúc nào cũng thật, bởi khả năng nhớ hiểu của con người quá giới hạn, nên có những thắc mắc thế thôi. Nếu người nhận hiểu sâu về lý nhân quả thì cuộc sống này đã có tiêu chuẩn nhắm đến và an ổn vô cùng . Vì mọi kết quả hiện chịu trong đời đều do nhân gây ra từ thưở trước , nên khổ không oán hờn, vui không ngạo mạn. Mình làm mình chịu, chỉ quý ngay đây phải chọn lấy nhân tốt mà làm, để mai kia khỏi phải thọ quả đau khổ, cho nên trong kinh nói: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Kẻ trí sợ nhân, người ngu thì sợ quả. Do cái nhìn thấu suốt và cái nhìn nông cạn, nên có chia Bồ Tát và chúng sinh. Nhân có thiện ác thì quả cũng có khổ vui.
Những kẻ gây tạo nghiệp ác, ắt phải thọ quả khổ trong ba đường dữ, địa ngục ma quỷ, súc sinh. Nghiệp ác là mình làm cho kẻ khác khổ, cân xứng với nhân mình gây, thọ quả khổ một nơi trong ba đường dữ. Nhân khổ có khi không thành quả, do nữa chừng mình biết hối cải, hoặc chuyển đổi. Nhân khổ nhất định thọ quả khổ, do sự nuôi dưỡng một cách sung mãn. Ví như có người uống rượu mà không ghiền , vì họ biết giới hạn chừa bỏ. Có người uống rượu nhất định phải ghiền rượu, vì họ mãi tiếp tục và say mê. Có nhân khổ mà không thọ quả khổ, cũng như thế.
Người gây nghiệp thiện ắt thọ quả vui trong cõi người., cõi A Tu La và cõi trời. Cân xứng của nghiệp lành mình đã tạo, nhiều ít thấp cao, kết quả cũng có hơn kém thấp cao. Có khi người ta nghiệp lành mà không hưởng quả lành . ví như một số sinh viên vào học y khoa, có người không đủ khả năng học hoặc lười biếng học, nên tuy học y khoa mà không thể thành bác sĩ. Có người đủ khả năng lại cần cù học tập, nhất định một ngày kia sẽ thành bác sĩ. Từ nhân đến quả còn cần có những sự kiện trợ giúp đầy đủ mới được viên mãn. Không có thể có nhận định tất nhiên rằng có nhân là có quả. Bởi vì thời gian từ nhân đến quả là giai đoạn biến động, hoặc được tăng trưởng, hoặc bị tiêu mòn, tùy theo những sự kiện trợ giúp. Biết thế chúng ta có thể chuyển nhân xấu thành tốt, hoặc nhân tốt trở ra xấu.
Sự tất yếu của luân hồi tùy thuộc nhân quả, không có kẻ nào khác áp đặt khổ vui cho chúng ta, cũng không có bàn tay nào lôi kéo chúng ta phải đi đường này hay lối khác, mọi sự kết quả đều cân xứng với nhân mình gây tạo. Nắm vững yếu tố này, mới thấy chúng ta trọn quyền định đoạt số phận của chúng ta. Nếu cuộc đời của chúng ta hiện được tươi sáng hay đen tối, đều do sự khéo léo hay vụng về của ta ngày xưa. Can đảm nhận lấy trách nhiệm của mình, không oán trách kêu ca, không than thân tủi phận. Chúng ta gan dạ trong cuộc sống hiện tại, song phải khôn ngoan chọn lối đi ở ngày mai.
.
5** THOÁT LY LUÂN HỒI
Đạo Phật giải thích rõ lý luân hồi, nhưng không phải để mãi chịu luân hồi. Biết luân hồi tường tận rồi, Phật chỉ ra con đường thoát ly luân hồi. Đúng như ý nghĩa biết khổ, chúng ta mới tìm cách thoát khổ. Luân hồi là vòng loanh quanh lẩn quẩn, nhào đi lộn lại không thể thoát ra. Chấp nhận trong vòng quanh quẩn đó, do người không tìm được manh mối thoát ra, hoặc không đủ khả năng thoát ra. Như các nhà khoa học phát minh ra sức hút của trái đất, mọi vật cam chịu trong vòng vọt lên rớt xuống, không sao thoát ra ngoài được. Nhưng cũng chính các nhà khoa học chế phi thuyền đủ khả năng vọt ra vòng hút của trái đất, đi thám hiểm các hành tinh khác. Biết rõ sức hút của trái đất rồi, mới chế được phi thuyền vọt ra ngoài sức hút. Cũng thế, Phật giải thích lý luân hồi rồi, mới dạy phương pháp thoát ly luân hồi. Mục đích của đạo Phật là thoát ly sinh tử luân hồi, không chấp nhận sự loanh quanh trong vòng sinh tử. Còn trong sinh tử dù dài ngắn khổ vui, đạo Phật đều kết luận là đau khổ., vì cùng một số phận vô thường. Chỉ thoát được luân hồi mới là an vui giải thoát.
.
KẾT LUẬN
Đạo Phật nói lý luân hồi cũng là phát minh một sự thật của vạn vật và con người. vì đối tượng của đạo Phật là con người, nên chung quy đặt nặng về sự luân hồi của con người. Con người nhận hiểu thấu đáo về lý luân hồi, nếu họ không có khả năng thoát khỏi lý luân hồi, tự chọn lựa cuộc luân hồi an vui và thoải mái. Nếu họ có khả năng thoát ly luân hồi, do hiểu luân hồi tiến tu đạo giải thoát. Biết được lý luân hồi, chúng ta biết được lẽ công bằng của con người , cũng nhận thấy sự tự do căn bản ở chúng ta. Mọi mê tín ỷ lại đều tiêu tan, do biết ta là người quyết định thân phận của mình. Tất cả oán hờn tủi hận đều sạch hết, vì có ai áp đặt sự đau khổ cho mình mà than thở. Quả chúng ta là con người độc lập tự do của chính mình trong hiện tại và vị lai. Dù chưa giải thoát, biết lý luân hồi, chúng ta cũng sáng suốt và yên ổn trong đời sống này. Mọi tương lai đều nằm trong tay chúng ta, chúng ta trọn quyền chọn lấy một tương lai nào theo sở thích của mình.
.
Source: PHẬT HỌC TỊNH QUANG 

Chuyển đến trang:  1  2  3  4  5  6  7  8  9  10 11 12